Trang Chính

  Dược Vị

  Toa Thuốc

  Diễn Đàn

  Đăng Nhập

  Đăng Ký

Diễn đàn >> Y Học Cổ Truyền >> các thầy cho e hỏi về bệnh đường huyết cao- tiểu đường

<< Đăng Chủ Đề Mới >>
các thầy cho e hỏi về bệnh đường huyết cao- tiểu đường - posted by love9x (Hội Viên)
on June , 04 2016
e xin chào quư thầy, chuyện là ba e bi sụt 6 kg do viêm loét hành tá tràng, viêm trượt hang vi ( nay đă ăn uống, tiêu hóa tốt do dùng thuốc đông)

ba đi xét nghiệm tiểu đường ở bv th́ kết quả là 6.0 ( bs bảo không bị đường cao)

e t́m hiều trên mạng th́ đường huyết từ 4.1 tới 6.1(110mg/dl) là b́nh thường. từ 6.2 tới 7.0 (126mg/dl) là đường huyết cao. trên 7.0 mới là tiểu đường. trên mạng họ cũng ghi là đường huyết từ 116mg/dl mới nên điều trị, c̣n từ 6,1 trở xuống th́ cơ thể đang khỏe mạnh.

e muốn hỏi là không biết ba e h điều trị đông y có được không?v́ e biết được là không bệnh uống thuốc cũng không tốt dù là đông y.

nhưng e lại băn khoăn là tây y khi nội tạng hư ra h́nh rồi mới cho là bị bệnh, nó y như thận và gan vậy (như các thầy đă phân tích nhiều).

4,1 tới 6,1 là b́nh thường , vậy tai sao càng lớn tuổi càng tiến gần 6,1?. xin các thầy giải thích cho e luôn là đông y quy cho tạng nào gây ra đường cao và tiểu đường? (tây y th́ là tuyến tụy).

e cám ơn các thầy nhiều
 
Replied by LUONGYVIET (Hội Viên)
on 2016-06-04 08:26:57.0
Mời tham khảo:

Chứng Tiêu khát (tiểu đường) trong đông y và điều trị

“Tiêu khát” là tên bệnh, chủ chứng của nó là khát không chỉ, tiểu tiện nhiều, mau tiêu, hay đói. Bệnh này không giống với bệnh chứng “tiêu khát” nói trong “Thương hàn luận”, “Nội kinh”. Theo nguyên nhân phát bệnh và chứng trạng trên lâm sàng của bệnh này mà chia ra những chứng: “Tiêu đản”, “cách tiêu”, “phế tiêu”, và “tiêu trung”. Sách “Kim quỹ yếu lược” của Trương Trọng cảnh thời gọi chung là “tiêu khát”, và đă đề ra các phép chữa về sau, sách vở của các y gia nhận thức về bệnh này, có chỗ phát triển thêm, như sách “chư bệnh nguyên hậu luận”, có nêu ra bệnh “tiêu khát”, thường phát ra các chứng ung nhọt, mụn lở hoặc phù thũng, các thiên “Yếu phương” có nêu ra trong khi trị liệu bằng thuốc, đồng thời phải hạn chế sự ăn uống, sách “Ngoại đài bí yếu”, lại nêu ra chứng “đái đường”, là triệu chứng chủ yếu trên lâm sàng của bệnh này, các nhà làm thuốc từ đời Tống về sau lại căn cứ vào 3 chứng chủ yếu trên lâm sàng của bệnh này, các nhà làm thuốc từ đời Tống về sau lại căn cứ vào 3 chứng chủ yếu của bệnh “tiêu khát” là: Uống nhiều, ăn nhiều, tiểu tiện nhiều, chia ra 3 chứng uống nhiều là “Thượng tiêu”, ăn nhiều là trung tiêu, đi đái nhiều là hạ tiêu, nhưng tính chất của bệnh chỉ là một đúng như sách “Thánh tể tống lục” đă nói “ Căn bệnh là một đem suy luận th́ có 3”.

NGUYÊN NHÂN

Nguyên nhân của bệnh tiêu khát cơ thể quy nạp như sau:

Ăn nhiều chất ngọt béo (bao gồm cả uống rượu, quá độ).

Thiên “Ḱ bệnh luận” sách “Tố vấn” nói: “Người bệnh v́ ăn nhiều đồ ngọt, nhiều chất béo, chất béo làm cho người ta nóng bên trong, chất ngọt là cho sinh đầy, cho nên khí tràn nên chuyển thành bệnh “tiêu khát”, về sau sách của các y gia cũng nói đi nói lại quan hệ sự ăn uống quá độ với bệnh “tiêu khát”, như Dụ Gia Ngôn nói: “Chất ngon béo, rượu ngon, thức ăn ngon ai mà hạn chế được, nhưng ăn nhiều quá lâu th́ đồ ăn uống gây thành nóng ở trong, làm cho tân dịch khô ráo, phải nước giúp vào, nhưng nước vào cũng tiêu đi, càng tiêu, càng khát, chất cao lương càng không tiêu được, mà gây thành bệnh “trung tiêu”, tuỳ đó hoặc trên, hoặc dưới cứ theo thứ tự mà truyền vào”. V́ thế có thể biết nóng không tiết độ là một nguyên nhân trọng yếu gây ra bệnh tiêu khát.

Nhân tố t́nh chí

Người xưa cho là tinh thần bị kích thích lâu dài, đều có quan hệ mật thiết với sự phát sinh và tái phát của bệnh “tiêu khát”, như “Tam tiêu luận” của Lưu Hà Gian nói: “Tiêu khát là tinh thần bị hao tổn, rối loạn quá độ mà sinh ra”. Sách “Nha môn sự thân” nói: “chứng tiêu khát nếu không kiêng sự ham muốn, không dè dặt sự mừng giận thời bệnh sẽ khỏi rồi lại trở lại”.

Pḥng dục quá độ, hoặc uống các thứ thuốc đan thạch: Nghiêm Dụng Hoà nói: “Bệnh tiêu khát đều gây nên khi thận khoẻ mạnh không tự ǵn giữ, phóng túng t́nh dục…hoặc uống những thuốc đan thạch, làm cho thận thủy khô kiệt…đó mà sinh ra khát và đi tiểu tiện nhiều”. Đó là nói rơ pḥng dục quá độ và ăn uống các thuốc đan thạch (đó là một lôi ham chuộng của giai cấp thống trị, hủ bại trong xă hội phong kiến trước kia), v́ muốn cầu trường sinh, phóng túng dâm dục, vui chơi mà đua nhau đều làm cho thận ráo tinh hư mà sinh ra bệnh “tiêu khát”.

Tóm lại: Những điều kể trên nhận thấy gây ra bệnh này là do nhân tố t́nh chí, hoặc ăn nhiều thức béo ngọt, hoặc pḥng dục quá độ. Do hỏa của ngũ chí mạnh quá, hoặc nhiệt mà thức ăn ngọt béo tích luỹ lại, gây thành chứng âm hư ở trong thân thể, nhất là thận âm hư. Nhưng nên nêu rơ là, bệnh kéo dài hồi lâu, th́ thường gây ra thận dương cũng hư nhưng cũng có một số ít bệnh, lúc mới phát đă kèm có thận dương hư.
BIỆN CHỨNG

Thiên “Tiêu khát” sách “Kim quỹ yếu lược” nói: “Con trai bị bệnh tiêu khát, tiểu tiện lại nhiều, là uống 1 đấu, tiểu tiện cũng ra một đấu”. Lại nói: “Mạch phù truờng sác, trong dạ dày có nhiệt, th́ tiêu cơm ăn nhiều, đại tiện rắn, tiểu tiện đi rắt”. Đó là đă nêu rơ ra chứng trạng chủ yếu của bệnh “tiêu khát” là uống nhiều và tiểu tiện nhiều, Lư Lang Trùng đời Đường lại nhận thức thêm về bệnh này là nước tiểu rất ngọt, ông nói: “bệnh tiêu khát …mỗi lần phát ra là nước tiểu ngọt”, về sau sách vở của các y gia, đối với chứng tiểu ngọt, cũng có ghi chép khá nhiều, thí dụ như sách “Sinh gia bảo” nói: chứng “tiêu khát” là ngày đêm uống nước hàng trăm chén, c̣n sợ chưa đủ… tiểu tiện đi luôn, mầu nước tiểu như dầy đặc, trên có váng nổi, vị ngọt như mật, dần ngấm lâu ngày, các giống trùng tụ lại mà ăn, đó là chứng trạng rất nguy, bệnh này gọi là bệnh tiêu khát”, cũng có sách chỉ tŕnh bày về ba chứng trạng “nhiều”, không nói tới nước tiểu ngọt như sách “Y học tâm Ngôn” nói: “Khát mà uống nhiều là thượng tiêu, tiêu cơm hay đói là trung tiêu, khát nước tiểu tiện ra như mỡ là hạ tiêu”. Khi lâm sàng thấy người bệnh bị chứng “tiêu khát” mà nước tiểu ngọt, cố nhiên có nhiều, những cũng có người khát nhiều, tiểu tiện nhiều, mà nước tiểu không biến vị. Đó là có thể biến chủ chứng của bệnh này là khát uống nhiều, hay ăn mà gây ra, là có thể có nhưng không phải đều có cả.

Uống nhiều, ăn nhiều, đi tiểu nhiều 3 chứng này, khi biểu hiện ra thường có nặng nhẹ khác nhau, hoặc có chứng uống nhiều rơ rệt, mà hai chứng kia không rơ rệt lắm, hoặc lấy chứng ăn nhiều làm chủ yếu, mà hai chứng kia làm thứ yếu hoặc cho đi tiểu nhiều là nặng, mà hai chứng kia là nhẹ. Các bậc hiền gia đời sau, căn cứ vào chứng nào nặng, chứng nào nhẹ trong ba chứng mà đặt tên gọi “thượng tiêu”, “trung tiêu” và “hạ tiêu”, để làm căn cứ cho việc biện chứng hay phân biệt tŕnh bày như sau:

Thượng tiêu

Khát mà uống nước nhiều, miệng khô, lưỡi ráo, đại tiện như thường, tiểu tiện đi luôn là phế nhiệt tân dịch bị tổn thương.

Trung tiêu

Tiêu cơm hay đói, ăn uống gấp bội, lúc thường mà không sinh ra th́ đại tiện rắn, là trong dạ dày táo và thực.

Hạ tiêu

Tiểu tiện luôn mà nhiều, hoặc như dầu mơ là thận âm bất túc. Uống

phần tiểu tiện ra 1 phần, hoặc nặng nữa th́ đi tiểu ra không chừng độnhưng số lượng nước tiểu nhiều hơn nước uống, liệt dương, sắc mặt đen sậm th́ không những là thận âm hư, mà thận dương cũng suy.

Trong quá tŕnh phát triển của bệnh, người xưa cho là bệnh này hay có chuyển biến, cần biết kiêng kỵ cẩn thận. Nhất là trong ca bệnh nước tiểu có vị ngọt, càng dễ phát sinh thêm các chứng khác cấp tính hoặc măn tính. Trương Trọng cảnh từng nêu ra bệnh có thể chuyển biến thành chứng “phế suy”, sách “Chư bệnh nguyên hậu luận” cũng nói bệnh “tiêu khát” biến chứng hạ phát ra chứng “ung thư”, hoặc lở ngoài da hoặc phù thũng. Các nhà làm thuốc sau này căn cứ vào thực tiễn lâm sàng đối với các kiêm chứng của bệnh này càng phát triển ra nhiều. Như Lưu Hà Giản đời Kim nói: “Bệnh tiêu khát phần nhiều biến thành loại bệnh điếc mà mụn lở, rôm sẩy đều là do trường vị táo nhiệt uất bốc lên, thủy dịch không thấm nhuần được toàn thân gây nên. Đôi Từ Cung đời Minh nói “Bệnh tam tiêu đă lâu ngày, tinh huyết đă thiếu, hoặc mắt không trông thấy hoặc một bên tay, chân tê liệt như chứng phong”. Đó là xuất hiện ra kiêm chứng th́ không những làm cho bệnh kéo dài, mà c̣n thường thường làm cho bệnh t́nh trở nên trầm trọng.
CÁCH CHỮA

Bệnh này tuy có chia ra “thượng tiêu”, “trung tiêu” và “hạ tiêu”, có phân biệt ra “phế nhiệt”, “vị nhiệt” và “thận hư”, nhưng khi lâm sàng th́ thường thấy kiêm cả 3 chứng. Lại do sự gây nên bệnh này là v́ âm hư và táo nhiệt mà hai nguyên nhân này thường dùng làm nhân quả lẫn nhau, nhiệt thịnh là do âm hư, âm càng hư th́ nhiệt càng nhiều, nhiệt càng nhiều th́ âm càng hư. Giữa 3 tạng phế vị thận, lại có ảnh hưởng lẫn nhau, phế vị táo nhiệt, tất nhiên tiêu thuốc tân dịch, cuối cùng thận âm sẽ bị uy hiếp, sách “Lâm chứng chỉ nam” nói “Chứng tam tiêu tuy có chia ra thượng, trung, hạ mà thực ra không ngoài âm hư, dương quá mạnh, tân dịch khô ráo khi nóng lan tràn ra mà thôi”. Trương Cảnh Nhạc th́ cho là, cần nên biện hư thực trước nếu xét mạch chứng quả là thực hoả, làm hao tổn tân dịch, th́ nên trừ hỏa đi là tân dịch tự sinh ra mà tiêu khát tự khỏi. Nếu do chân thủy bất túc, là thuộc về âm hư, th́ không cứ là thượng, trung, hạ, tam tiêu, cần phải nên chữa thận, là do âm khí dần dần đầy đủ, tinh huyết dần dần khôi phục, là bệnh tự khỏi. Trên sự thật, bệnh này mà thuộc về thực hoả, cũng không thấy nhiều, nếu có bằng cớ là thực hoả, tất nhiên là phải dùng thuốc khổ hàn để trực tiếp ức chế ngay nhưng cùng bệnh đó th́ thôi, không nên dùng quá nhiều.

Thiên “Tiêu khát” sách “Kim quỹ yếu lược” nói: “Con trai bị bệnh tiêu khát, tiểu tiện lại nhiều, uống nước bao nhiêu đi tiểu bấy nhiêu dùng thận khí hoàn làm chủ”. Khát muốn uống nước, miệng khô ráo, lấy Bạch hổ gia nhân sâm thang làm chủ, chứng trước không những tả thận âm hư, hỏa suy không hóa được thủy, chứng sau là thiên về phế vị nhiệt quá tân dịch tổn thương, nhưng đă nêu rơ được về nguyên tắc chữa bệnh này, những sách thuốc của các y gia từ trước đến nay đối với phương thuốc chữa bệnh này, đều dựa trên cơ sở của “Kim quỹ yếu lược”, mà phát triển không ngừng, căn cứ vào nguyên nhân bệnh mà lựa dùng những phép sinh tân dịch thanh hỏa nhiệt, tư dưỡng thận âm, ôn bổ thận dương và tả nhiệt ở vị. Nay đem tŕnh bày từng trường hợp như sau:

Tư dưỡng thận âm hư

Gia giảm Lục vị địa hoàng hoàn (1); sinh tân dịch thanh hóa nhiệt như: Bạch hổ gia nhân sâm thang (2), Ngọc nữ tiễn (3), Hoàng liên hoàn (4), Tiêu khát phương (5); ích khí dưỡng âm như: Kim quỹ thận khí hoàn (7), Tam nhân lộc nhung hoàn (8).

Trong vị táo thực như

Điều vị thừa khí thang (9), Tam hoàng thang (10). Sự phân loại ở trên chỉ nêu đại khái. C̣n như cách sử lí ở cách kiêm chứng ung thư, th́ nên dùng xem các bài Hoàng ḱ lục nhất thang (11), Nhẫn đông đằng hoàn (12).

Bệnh này ngoài việc chữa bằng thuốc, c̣n cần phải coi trọng việc điều dưỡng, sách “ngoại đài bí yếu” nói: “Người ta nên lao động chút ít, nhưng đừng lao động lâu mỏi mệt quá, cũng đừng nên miễn cưỡng làm cái mà không làm nổi, ăn xong đi bách bộ, hơi thấy khoan khoái th́ ngồi”. Lại nói nên ăn trứng gà và thịt ngựa, sữa ḅ tươi hâm cho ấm vừa với sức nóng của ḿnh, khát th́ sẽ uống dần dần. Sách “Thánh tể tổng lực” nói : “Ngoài việc uống thuốc, c̣n nên cắt dứt các điều ham muốn và ăn uống thanh đạm”. Tử Đông Cao cũng nói: “Phàm mới thấy bệnh tiêu khát, nên chay tịnh ít phong dạo, ăn uống thanh đạm, bớt sự lo nghĩ, thời chữa có thể khỏi, nếu có một chút nào không cẩn thận th́ dù có thầy hay thuốc giỏi cũng không thể cứu sống được”. Đó là nói rơ về mặt tinh thần, cần tránh sự căng thẳng quá mức, giữ ǵn tư tưởng yên tĩnh, về mặt ăn uống, động tác nghỉ ngơi nên giữ ǵn sự ăn uống cho thích đáng. Bệnh nhẹ nên tiến hành lao động chân tay nhẹ nhàng, những điểm đó rất quan trọng, do đó trong khi tiến hành chữa bệnh, đồng thời nên bảo người bệnh phải chú ư đến các điểm kể trên.
TÓM TẮT

Tên bệnh “tiêu khát” bắt đầu thấy ở sách “Nội kinh”. Từ đời Đường về sau, sách vở của y gia căn cứ vào 3 chủ chứng của bệnh này là: uống nhiều, ăn nhiều và tiểu tiện nhiều, mà đặt thành 3 tên là “thượng tiêu”, “trung tiêu”, và “hạ tiêu” để làm tiêu chuẩn mà biện chứng.

Chủ chứng của bệnh này là: Khát uống nhiều, hay ăn mà gầy, tiểu tiện đi luôn mà nhiều, hoặc nước tiểu có vị ngọt. Nguyên nhân gây bệnh th́ gốc ở âm hư và táo nhiệt, nhưng hai nguyên nhân này thường làm nhân quả lẫn nhau, nhiệt thịnh bao nhiêu lại làm cho âm hư bấy nhiêu, cho nên trọng điểm của bệnh này là ở âm hư quá thịnh. C̣n như phương pháp chữa nếu thận âm hư kém th́ nên tư dưỡng thận âm, liên cấp đến thận dương kém th́ kiêm ôn bổ thận dương, nếu nhiệt thịnh tân dịch tổn thương, th́ nên dùng phương pháp sinh tân thanh nhiệt, c̣n như thuốc đắng lạnh tả hạ là để dụng cho các chứng thực nhiệt, nhưng cần phải đúng bệnh th́ thôi ngay, không nên dùng quá, đó là điều nên chú ư.

Ngoài việc chữa bằng thuốc, c̣n phải ổn định t́nh chí, giữ ǵn ăn uống cho đúng mức, đồng thời tiến hành lao động chân tay nhẹ nhàng. Bệnh này là một bệnh măn tính, nhất là về ca bệnh nước tiểu ngọt để phát sinh các chứng “phế suy”, “ung thư”, mù, điếc, liệt một bên chân tay. C̣n như phương pháp chữa, nên căn cứ theo tính chất thực hư của kiêm chứng mà dùng các cách chữa khác nhau.
PHỤ PHƯƠNG

Lục vị địa hoàng hoàn: Xem phụ phướng số 11 mục Hư lao.
Bạch hổ gia nhân sâm thang: Thạch cao, tri mẫu, nghạch mễ, cam thảo, nhân sâm.
Ngọc nữ tiễn: Xem phụ phương số 12 mục Niệu huyết.
Hoàng liên hoàn : Hoàng liên, sinh địa.
Tiêu khát phương: Hoàng liên, thiên hoa phân, sinh địa trấp, ngũ trấp, ngưu nhũ.
Hoàng kỳ thang: Xem phụ phương số 6 mục Tiêu bí.
Kim quỹ thận khí hoàn: Xem phụ phương số 16 mục Huyễn háo.
Tam tiêu ỉộc nhung hoàn: Lộc nhung, mạch môn, thục địa, hoàng ḱ, ngũ vị tử, khương thang dung, kê nội kim, sơn thù nhục, phá cố chỉ, nhân sâm, ngưu tất, huyền sâm, địa cốt b́.
Điều vị thừa khí thang: đại hoàng, mang tiêu, cam thảo.
Tam hoàng thang: Đại hoàng, hoàng liên, hoàng cầm.
Hoàng ḱ lục nhân thang: Hoàng ḱ, sinh địa, cam thảo.
Nhẫn đông đằng hoàn: Nhẫn đông đằng

Theo: thuocchuabenh.vn
 
Reply with a quote
Replied by chuot (Hội Viên)
on 2016-06-04 08:47:21.0
Rất vui v́ diễn đàn có thêm 1 lương y giúp đỡ bệnh nhân ,giảm tải cho thầy saiho với thầy phó ah.hi
 
Reply with a quote
Replied by LUONGYVIET (Hội Viên)
on 2016-06-06 00:05:35.0
Lâm sàng tâm đắc:
Trong điều trị Tiêu Khát - không lệ thuộc Di Đảo Tố (c̣n gọi là Insulin)
- BN dùng: Gián phục - Bổ thận dương ngày lẻ - 3 - 5 - 7 và Bổ thận âm ngày chẳn - 2 - 4 - 6 - (CN không uống thuốc).
- Chia bửa cơm chính thành nhiều lần ăn trong ngày (mỗi lần ăn chỉ một ít)
- Thường xuyên ăn: Bột Hoài Sơn (Sơn Dược hay củ mài) thay thế cháo nấu từ gạo. Gia vị y như nấu cháo. Và ăn mướp đắng (khổ qua) - Theo dỏi Huyết Áp

Tham khảo thêm:

Người ta cũng đă xác định độc tính trong quả mướp đắng cho thấy, mướp đắng tương đối lành ở liều thấp và không dùng quá 4 tuần. Chưa có báo cáo nào về tác dụng nguy hiểm của cao mướp đắng ở liều 50ml. Nói chung, mướp đắng có mức độc tính lâm sàng thấp, có thể có vài xáo trộn về đường tiêu hóa. V́ tính chất hạ đường huyết, nên dè dặt khi người bệnh đă có triệu chứng đường xuống quá thấp.

Mướp đắng có thể độc hại cho tế bào gan ở thú vật, enzym gan tăng cao sau khi dùng mướp đắng. Các chất trong mướp đắng có khả năng thay đổi h́nh dáng tế bào gan.

Hạt mướp đắng chứa một chất tên vicine, là một độc tố có khả năng gây ngộ độc tầm đậu (favism), một hội chứng cấp tính gồm nhức đầu, đau thắt bụng và hôn mê.

Ngay cả khi cây mướp đắng trồng ở những vùng thổ nhưỡng khác nhau th́ thành phần trong quả cũng có tỷ lệ và sự có mặt các vi chất khác nhau. Do đó nếu cây trồng trên vùng đất có nhiễm kim loại nặng rất có thể trong quả mướp đắng trồng tại vùng này bị nhiễm kim loại nặng mà gây độc cho cơ thể khi chúng ta ăn nó.

Khi dùng mướp đắng (ở mọi dạng chế biến), không được dùng huyền sâm hoặc các chế phẩm có huyền sâm. Mướp đắng tính mát, không nên dùng cho người tỳ vị hư hàn (rối loạn chức năng tiêu hóa do lạnh).

theo Nông nghiệp Việt Nam
-------------------------

Hoài sơn


Trị chứng tiểu đường: thường dùng cho tiểu đường NDI thể nhẹ và trung b́nh, dùng độc vị như trên dùng bài:

Sơn dược tiêu khát ẩm: Hoàng kỳ 16g, Hoài sơn 20g, Thiên hoa phấn, Tri mẫu mỗi thứ 12g, Kê nội kim 8g, Ngũ vị tử 6g, sắc uống.
Ngọc dịch thang: Sơn dược 24g, Hoàng kỳ, Cát căn, Hoa phấn, Tri mẫu mỗi thứ 12g, Kê nội kim 8g, Ngũ vị tử 6g, sắc uống.
Hoài sơn 30g, Phúc bồn tử, Mạch môn, Thiên hoa phấn mỗi thứ 12g, sắc nước uống.

Liều lượng thường dùng và chú ư:

Liều thường dùng: 12 - 40g, liều cao dùng đến 80 - 160g, dùng thay nước uống có thể đến 200 - 300g mỗi ngày.
Cần bổ âm nên dùng thuốc sống, dùng kiện tỳ chỉ tả nên sao vàng.


http://agarwood.org.vn/wp-content/uploads/2015/05/3abdae189b850.jpg

 
Reply with a quote
Replied by love9x (Hội Viên)
on 2016-06-06 04:11:13.0
dạ, e cám ơn thầy
 
Reply with a quote


<< Trả Lời >>

Nội Quy | Góp Ý | © 2009 - 2022 yhoccotruyen.org