Trang Chính

  Dược Vị

  Toa Thuốc

  Diễn Đàn

  Đăng Nhập

  Đăng Ký

Diễn đàn >> Đông Y Thực Dụng >> HỆ THỐNG TUẦN HOÀN

<< Đăng Chủ Đề Mới >>
HỆ THỐNG TUẦN HOÀN - posted by Trường Xuân (Hội Viên)
on January , 11 2024
Đông y với bệnh mạch vành
Đông y học gọi bệnh mạch vành tim là bệnh ǵ?
Bệnh mạch vành tim là tên gọi đơn giản của bệnh sơ vữa động mạch vành. V́ đông y không có nhận thức về bệnh mạch vành, và sách đông y cũng chưa luận thuật về bệnh biến của bệnh mạch vành, v́ thế trong đông y học không có tên bệnh này. Nhưng y thư của đông y học qua các thời kỳ, đối với các chứng trạng biểu hiện tương tự tâm giảo thống bệnh mạch vành (đau thắt ngực), nhồi máu cơ tim, đều được tŕnh bày khá tường tận.
Trong những sách y học cổ ghi lại hội chứng của các bệnh chứng như “Thốt tâm thống” (卒心痛) đột nhiên đau tim,”Cửu tâm thống” (久心痛) đau tim kéo dài,”Quyết tâm thống” (厥心痛) đau tim bị ngất,”Hung tư tâm thống” (胸痹心痛)đau ngực và tim, “Vị tâm thống” (胃心痛) đau tim và dạ dày, “Chân tâm thống” (真心痛) đau tim thực sự, hoàn toàn giống với các chứng trạng của chứng đau thắt ngực bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim và hạ huyết áp gây ra do các bệnh nêu trên. Đông y hiện đại sử dụng tên bệnh chứng “Hung tư” (胸痹) đối với bệnh mạch vành để biện chứng luận trị.
Nhận thức của đông y đối với đặc điểm phát tác của chứng đau thắt ngực bệnh mạch vành như thế nào?
Khởi phát tâm giảo thống bệnh mạch vành chính là do động mạch vành cung cấp máu không đủ, cơ tim bị tạm thời thiếu máu đột ngột gây nên một loạt chứng trạng lâm sàng.
Đông y học nhận thức thế nào đối với sự phát tác của tâm giảo thống? {Tố vấn. Tạng khí pháp thời luận} viết: “Tâm bệnh giả, hung trung thống, hiếp chi măn, hiếp hạ thống, ưng bối kiên giáp gian thống, lưỡng tí nội thống” (心病者,胸中痛,胁支满,胁下痛,膺背肩胛间痛,两臂内痛。) (Tạm dịch : Bệnh tim, đau trong ngực, ngực trướng đầy, đau phía dưới sườn, đau ở ngực, lưng và giữa hai vai, đau phía trong hai cánh tay). Ngực là giữa hai vú, tức là đau phía dưới xương ức, có thể đau phóng xạ ra vai lưng phía trái. Trong lâm sàng rất ít khi gặp đau ở phía trong hai cánh tay, phần nhiều hướng về vai lưng trái và hai bên phía trong dọc theo hai đường kinh thủ thiếu âm tâm, thủ quyết âm tâm bào phóng xạ đến ngón út và ngón vô danh. Là những đặc điểm vị trí được miêu tả khi phát tác bệnh tâm giảo thống (đau thắt ngực).
Chứng trạng đau khi bệnh tâm giảo thống phát tác được miêu tả như sau: {Chư bệnh nguyên hậu luận} viết: “ Kỳ cửu tâm thống giả, thị tâm chi chi biệt lạc, vi lănh phong sở thừa, thống dă, cố thành chẩn (bệnh). Bất tử, phát tác hữu thời, kinh cửu bất sái dă” (其久心痛者,是心之支别络,为冷风所乘,痛也,故成疹(病)。不死,发作有时,经久不瘥也) tạm dịch: Chứng đau tim lâu ngày, chính là những lạc mạch chi nhánh của tạng tâm, bị ảnh hưởng do lạnh (co thắt lại) gây đau, tạo thành bệnh. Không gây tử vong, có lúc phát tác, kéo dài không khỏi. Lại viết: “ Phu tâm thống, đa thị phong tà đàm ẩm, thừa tâm chi kinh lạc, tà khí bác vu chính khí giao kết nhi thống dă. Nhược thương tâm chi chi biệt lạc nhi thống giả, tắc xạ gian xạ thịnh, hưu tác hữu thời dă” (夫心痛, 多是风邪痰饮,乘心之经络,邪气搏于正气交结而痛也。若伤心之支别络而痛者,则乍间乍盛,休作有时也。) td: Đau tim, thường do phong tà đàm ẩm, ảnh hưởng kinh lạc của tạng tâm, tà khí và chính khí đấu tranh gây đau. Nếu đau do biệt lạc bị tổn thương th́ cơn đau phát tác lúc nhẹ lúc nặng, lúc có lúc không) {Kim quỹ yếu lược . Hung tư tâm thống đoản khí bệnh mạch chứng trị thiên} viết: “Tâm hung triệt bối, bối thống triệt tâm” (心痛彻 背,背痛彻心). Đau từ ngực sang lưng, đau từ lưng sang ngực{Tế sinh tổng lục . Tâm thống tổng luận} viết: “Tâm thống chư hậu, hữu hàn khí thốt khách vu tạng phủ, phát thốt thống giả; Hữu dương hư âm quyết, thống dẫn hầu giả; Hữu tâm bối tương dẫn, thiện xiết ủ lâu giả; Hữu phúc trướng quy vu tâm, thống thậm giả; Hữu cấp thống như châm chuỳ sở thích giả, hữu kỳ sắc thương thương, chu nhật bất đắc thái tức giả; Hữu ngoạ tắc ṭng tâm gian thống, động tác dũ thậm giả; Hữu phát tác tích tụ văng lai, thượng hạ thống hữu hưu chỉ giả. Hoặc nhân vu ẩm thực, hoặc ṭng vu ngoại cảm, trung tạng kư hư, tà khí khách chi, bĩ nhi bất tán, nghi thông nhi tắc, cố vi thống dă.” (心痛诸候,有寒气卒客于脏腑,发卒痛者;有阳虚阴厥,痛引喉者;有心背相引,善瘛伛偻者;有腹胀归于 心,痛甚者;有急痛如针锥所刺者,有其色苍苍,终日不得太息者;有卧则从心间痛,动作愈甚者;有发作积聚往来,上下痛有休止者。或因于饮食,或从于外感, 中脏既虚,邪气客之,痞而不散,宜通而塞,故为痛也。) tạm dịch: Hội chứng đau tim, khí lạnh đột nhiên xâm phạm tạng phủ, gây đau; Nếu dương hư âm quyết (ngược lên), đau đến cổ họng; Đau từ ngực sang lưng, lưng cong lại như bị gù; Bụng trướng gây đau tim, đau dữ dội; Cơn đau cấp như dùi đâm, sắc mặt màu xám, khó thở; Khi nằm cơn đau phát tác, khi hoạt động th́ đau hơn; Cơn đau phát tác qua lại, có lúc đau nhiều lúc đau ít và có lúc ngưng. Hoặc do ăn uống, hoặc do ngoại cảm, tạng phủ hư tổn, bệnh tà ảnh hưởng, bế tắc không tan, cần thông sướng nhưng lại nghẹt tắc v́ thế gây đau.  
Nhận thức của đông y đối với bệnh mạch vành nhồi máu cơ tim cấp như thế nào?
Là do cơ tim thiếu máu nghiêm trọng kéo dài làm cho một bộ phận cơ tim thiếu máu bị hoại tử. Bệnh nhân phát sinh nhồi máu cơ tim, có thể có các bệnh chứng như ngực đau dữ dội, suy tim cấp, choáng có nguyên nhân từ tim, trở ngại ư thức, tâm luật thất thường nghiêm trọng.
Đông y học nhận thức thế nào về nhồi máu cơ tim cấp? {Linh khu . Quyết bệnh thiên} viết: “ Quyết tâm thống, thống như dĩ chuỳ thích kỳ tâm, tâm thống thậm giả, ….quyết tâm thống, phúc trướng hung măn, tâm thống vưu thậm.” (厥心痛,痛 如以锥刺其心,心痛甚者,……厥心痛,腹胀胸满,心痛尤甚。) Tạm dịch: Ngất do đau tim, đau như dùi đâm vào tim, rất đau…ngất do đau tim, bụng trướng đầy, cơn đau càng mănh liệt. Y gia Tôn Tư Mạc đời Đường viết trong Thiên kim phương “Luận viết: Hung tí chi bệnh, linh nhân tâm trung kiên măn bĩ cấp thống, cơ trung nhược tí, giảo cấp như thích, bất đắc phủ ngưỡng,…..thời dục ẩu thổ, phiền muộn, tự hăn xuất, hoặc triệt dẫn bối thống, bất trị chi, số nhật sát nhân” (论曰:胸痹之病,令人心中坚满痞急痛,肌中若痹, 绞急如刺,不得俯仰,……时欲呕吐,烦闷,自汗出,或彻引背痛,不治之,数日杀人)td: Luận viết: Bệnh hung tư tạo thành cơn đau mănh liệt dai dẳng kèm theo trướng đầy trong tim, nếu đau ở cơ tim, cơn đau quặn nhói, không thể cúi hoặc ngửa cơ thể, bn buồn nôn, phiền muộn, đổ mồ hôi, hoặc đau thông sang lưng, nếu không điều trị thích đáng ít ngày sau sẽ chết. Thiên Đồng Thư tâm phúc thống viết: “Tâm thống bạo giảo cấp tuyệt dục tử” (心痛暴绞急绝欲死) Cơn đau tim quặn thắt như chết được “ Tâm thống như chuỳ đao thích” (心痛如以锥刀刺) Đau như dùi dao đâm vào tim) đến “Tâm phúc giảo thống” (心 腹绞痛)Tim đau quặn thắt. Quan sát lâm sàng cho thấy, khi cơ tim nghẹt tắc cấp tính, mức độ tim đau quặn thắt khá mănh liệt, cơn đau khá dài, thường kèm theo lợm giọng, nôn ói, xuất nhiều mồ hôi. Như thế cho thấy Y gia Tôn Tư Mạc đă có nhiều kinh nghiệm và nhận thức đối với bệnh này.
Nhận thức của Đông y đối với chứng nhồi máu cơ tim cấp tính đồng thời sốc choáng có nguồn gốc do tim như thế nào?
Nhồi máu cơ tim cấp tính phát sinh sốc có nguồn gốc tại tim chính là khi cơ tim nghẹt tắc làm cho công năng thu súc (công năng tâm thu) của tim suy giảm rất nhiều, lực bơm hút của cơ tim suy yếu, công năng bơm máu của tim hạ thấp rơ rệt mà gây ra sốc. Đông y học đă có những nhận thức như thế nào về trường hợp này? Trong Linh khu thiên quyết bệnh viết: “真心痛,手足青至节,心痛甚,旦发夕死,夕发旦死。.” (Đau tim (thực sự) tay chân xanh đến khớp, tim đau nhiều, sáng phát bệnh đến tối chết, tối phát bệnh đến sáng chết.) Hà Mộng Dao tiến thêm một bước viết trong Y thiên : “邪伤其脏(心)而痛者,谓之真心 痛。其症卒然大痛,咬牙噤口气冷,汗出不休,面黑,手足青过节,冷如冰,旦发夕死,夕发旦死。”(Bệnh gây tổn thương tạng (tâm) nên đau, gọi là chân tâm thống. Chứng này đột nhiên đau dữ dội, bn nghiến răng cấm khẩu, người lạnh, xuất mồ hôi không ngừng, sắc mặt đen, chân tay xanh, lạnh như nước, sáng phát bệnh đến tối chết, tối phát bệnh đến sáng chết.) Những miêu tả trên có nhiều điểm tương đồng với hội chứng lâm sàng của bệnh nhồi máu cơ tim kèm theo sốc (choáng). Đời Nguyên Y gia Nguy diệc Lâm viết trong Thế y đắc hiệu phương…Qua những ghi chép nêu trên đă chứng tỏ y gia các đời trước đă có nhận thức nhất định về tính nghiêm trọng của bệnh.

V́ đau dữ dội nên gọi “Tịch tử”, “Đán tử”, thường thuộc chết giả, đồng nghĩa với “thống tử” trong Tố vấn Cử thống luận : “Thốt nhiên thống tử bất tri nhân, khí phục phản tắc sinh hĩ” (卒然痛死不知人,气复返则生矣。). V́ là chết giả nên có đoạn : “khí phục phản tắc sinh” (气复返则生), đau tim chân tay lạnh lẽo, khí lạnh như nước, xuất mồ hôi không ngừng, sắc mặt đen, tương tự như biểu hiện lâm sàng của chứng hưu khắc (Sốc choáng) do tim. Gọi là “tâm thống thậm”, “Đại thống”, đều không thể là tâm giảo thống (đau thắt ngực) b́nh thường, thống thậm là rất đau mà sốc choáng như muốn chết, rất giống với nhồi máu cơ tim phát sinh sốc choáng do tim.

Nhận thức của Đông y đối với nguyên nhân và cơ chế bệnh mạch vành như thế nào?
Đông y cho rằng bệnh mạch vành là bệnh của tạng tâm và mạch lạc nuôi dưỡng tạng tâm, nguyên nhân phát bệnh gồm nhiều phương diện, lại có quan hệ mật thiết với những biến hoá của toàn bộ cơ thể. Phương diện chủ yếu là do suy yếu của tuổi già, chính khí hư nhược (năng lực kháng bệnh kém), công năng của tạng phủ bị tổn thương, âm dương khí huyết mất điều hoà, cộng thêm nội thương thất t́nh, ăn uống không tiết độ, lạnh nóng thất thường, làm việc nghỉ ngơi không điều độ, là những nhân tố ảnh hưởng, dẫn đến khí trệ huyết ứ, dương khí của lồng ngực suy yếu, đàm trọc nội sinh, làm tim mạch tắc nghẽn mà thành bệnh. Trong đó, công năng tạng phủ kinh lạc khí huyết mất điều hoà, sự thăng bằng âm dương của cơ thể bị phá vỡ (âm b́nh dương bí: âm b́nh thuận, dương pḥng thủ kiên cố), chính là nguyên nhân nội tại của bệnh. Nguyên nhân nội tại là cơ sở (phát bệnh), nguyên nhân bên ngoài là điều kiện (phát bệnh).
Từ tuổi 40 trở lên tạng khí của con người đă bắt đầu suy yếu, đặc biệt sự suy yếu ở tạng thận là rất rơ rệt. Như trong Tố vấn : “Nữ tử….Ngũ thất dương minh mạch suy, diện thuỷ tiêu, phát thuỷ đoạ…. Trượng phu …. Ngũ bát thận khí suy, phát đoạ xỉ cảo…..”女子……五七阳明脉衰,面始憔,发始堕……。丈夫……五 八肾气衰,发堕齿槁……。”Nữ tử ….năm lần bảy (35) mạch dương minh suy, sắc mặt bắt đầu tiều tuỵ, tóc bắt đầu rụng… Trượng phu người nam) …ngũ bát (40) thận khí suy, tóc rụng răng hư. Mà công năng tạng phủ hư tổn dẫn đến phát sinh bản bệnh chủ yếu là dương hư. Như Kim quỹ viết: “Dương hư âm huyền, tức hung tí nhi thống, sở dĩ nhiên giả, trách kỳ cực hư dă” (阳微阴弦,即胸痹而痛,所以然者,责其极虚也。) Dương nhỏ bé âm huyền (căng), th́ hung tư (ngực liệt) và đau là đương nhiên, là biểu hiện của hư tổn cực độ. Y môn pháp luật viết: “Hung tí tổng nhân dương hư tắc âm đắc thừa chi.” (胸痹总因阳虚故阴得乘之。) Chứng đau ngực là do dương hư âm lấn. Điều này cho thấy dương ở lồng ngực không đủ, âm tà xâm lấn vị trí của dương, cả hai hỗ tương giao tranh dẫn đến bệnh đau ngực (Hung tư).
Thận là căn bản của tiên thiên, thận dương suy yếu không thể cổ vũ dương khí của các tạng khác, như tỳ vị không được làm ấm nên không thể vận hoá, làm cho doanh huyết không đủ, mạch đạo thiếu thốn nên tim không được nuôi dưỡng đầy đủ. Tạng tâm chủ huyết mạch, là động lực vận hành khí huyết, tâm khí không đủ, lực cổ động kém nên xuất hiện khí trệ huyết ứ, xuất hiện lồng ngực phiền muộn, đau tim. Như Tố vấn Tư luận viết: “Tâm tư giả, mạch bất thông.” 心痹者,脉不通.) Đau tim là do mạch không thông.
Tạng tỳ là căn bản hậu thiên, chủ về vận hoá, nếu ăn quá nhiều cao lương mỹ vị, gây tổn thương tỳ vị, công năng vận hoá thất thường, biến thành đàm trọc chi dịch (mỡ), khí huyết vận hành bị trở ngại, làm cho khí kết huyết ngưng trệ mà phát sinh đau ngực. Phế chủ khí, chủ hô hấp, chủ túc giáng (trong trẻo giáng xuống). Nếu phế khí suy yếu hoặc túc giáng thất thường, sẽ ảnh hưởng động lực của mạch trong việc nuôi dưỡng tạng tâm, khí cơ uất trệ dẫn đến huyết ứ nên phát sinh bản bệnh. Do giận dữ quá độ, công năng sơ tiết của tạng can bị ảnh hưởng, can khí uất trệ cũng có thể dụ phát bệnh đau thắt ngực (tâm giảo thống). Trên phương diện tinh thần, nội thương thất t́nh (cảm xúc) có thể làm cho khí cơ không thông suốt, v́ khí là tướng soái của huyết, khí trệ nên huyết ứ, dẫn đến tâm huyết bị trở ngại. {Linh khu. Khẩu vấn thiên}: “Ưu tư tắc tâm hệ cấp, tâm hệ cấp tắc khí đạo ước, ước tắc bất lợi” (忧思则心系急,心系急则气道约,约则不利。) Ưu tư làm cho tạng tâm cấp bách, tâm cấp bách th́ khí đạo co lại, co lại th́ không thuận lợi. Phương diện khí hậu chủ yếu là ảnh hưởng của khí lạnh, như trong Tố vấn Cử thống luận viết : “Kinh mạch lưu hành bất chỉ, hoàn chu bất hưu. Hàn khí nhập xâm nhi kê tŕ, khấp nhi bất hành, khách vu mạch ngoại tắc huyết thiểu, khách vu mạch trung tắc khí bất thông, có thốt nhiên nhi thống.” (经脉流行不止,环周不 休。寒气入侵而稽迟,泣而不行,客于脉外则血少,客于脉中则气不通,故卒然而痛。)
Kinh mạch lưu hành không ngừng, thành ṿng tṛn không nghỉ. Khí lạnh xâm nhập gây tŕ trệ, xâm nhập ngoài mạch th́ huyết thiểu (thiếu máu), xâm nhập vào trong mạch th́ khí không thông, v́ thế đột nhiên bị đau. Chư bệnh nguyên hậu luận lại viết: “Hàn khí khách vu ngũ tạng lục phủ, nhân hư nhi phát, thượng xung hung gian, tắc vi hung tí” (寒气客于五脏六腑,因虚而发,上冲胸间,则为胸 痹。) Khí lạnh xâm nhập ngũ tạng lục phủ, v́ hư tổn mà phát bệnh, xung lên ngực thành chứng hung tí (đau ngực). V́ thế khi hàn tà ( khí lạnh)xâm phạm vị trí dương của lồng ngực th́ tim bị đau. Nói tóm lại bệnh mạch vành chính là một chứng “Bản hư tiêu thực”(Bệnh có căn bản là hư yếu). Trong quá tŕnh phát bệnh, hư tổn của ngũ tạng Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận chính là căn bản của bệnh; Khí trệ, huyết ứ, đàm trọc, âm hàn chính là tiêu (ngọn) của bệnh. Tiêu thực bản hư chính là đặc điểm của bệnh mạch vành.

Các nguyên nhân dụ phát của bệnh mạch vành là ǵ?
Bệnh nhân bệnh mạch vành, bất kể lúc nào cũng đều có thể phát sinh tâm giảo thống hoặc nhồi máu cơ tim, mà sự phát sinh những hội chứng nguy cấp này, ngoại trừ bệnh biến của tạng tâm, tâm mạch ứ trệ, ảnh hưởng của ngoại cảnh đối với việc phát sinh bệnh cũng có tác dụng nặng nhẹ khác nhau, đó là những nhân tố dụ phát bệnh.
1/ Ảnh hưởng của nhân tố cảm xúc : Các cảm xúc như : Vui, giận, lo, mong nhớ, buồn, hăi, sợ (Hỉ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh) quá độ, đều có thể dẫn đến phát bệnh, nhưng chủ yếu chính là các cảm xúc giận dữ và ưu tư làm cho khí kết lại. Nội kinh viết: “Nộ tắc khí thượng, tư tắc khí kết” (怒则气上,思 则气结) Nộ (giận dữ) làm cho khí đi lên, ưu tư th́ khí kết lại, khí và huyết có quan hệ hỗ tương sử dụng. V́ khí là tướng soái của huyết, huyết là mẹ khí, khí đi th́ huyết đi (khí huyết lưu thông), khí trệ th́ huyết ứ, nhất là đối với những bn tâm mạch đă bị ứ trệ, do giận dữ, khí cơ nghịch loạn, do ưu tư làm cho khí kết, khí cơ uất trệ, h́nh thành t́nh trạng tuần hoàn của khí huyết bị trở ngại. Nếu xuất hiện tâm mạch ứ trệ không thông, th́ phát sinh cơn đau tim. Trường hợp tắc nghẽn nghiêm trọng sẽ phát sinh nhồi máu cơ tim, có thể nguy hiểm đến tính mạng. V́ thế, bệnh nhân bệnh mạch vành nên có tâm t́nh khoan hoà rộng răi, gặp việc không giận dữ, giữ tâm t́nh vui vẻ phóng khoáng, rất hữu ích trong việc hồi phục sức khoẻ.
2/ Mệt mỏi gây tổn thương khí lực : Thiên Bách bệnh thuỷ sinh trong Tố vấn viết: “Lao tắc khí háo” (劳则气耗) Mệt mỏi th́ háo khí, quá mỏi mệt làm cho tạng tâm quá tải, quá độ mỏi mệt th́ nguyên khí bị tiêu hao, nguyên khí hư tổn th́ tâm khí cũng hư tổn, tâm khí hư tổn nên không đủ lực để thúc đẩy huyết dịch tuần hoàn, lâu ngày làm cho khí huyết bế tắc không thông, dẫn đến đau tim.
3/ Khí lạnh xâm phạm cơ thể: Con người sống trong trời đất, khí hậu tự nhiên và con người luôn luôn có sự tương quan với nhau, biến hoá của khí hậu bên ngoài tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến cơ thể. V́ khí huyết tuần hoàn trong cơ thể khi nóng th́ lưu thông dễ dàng, khi lạnh th́ ngưng trệ, v́ thế khi khí lạnh (xấu, tà) xâm nhập cơ thể, sẽ ảnh hưởng sự vận hành của kinh mạch khí huyết. Y gia Vương Thúc Hoà viết trong Mạch kinh: Đau tim là do khí lạnh xâm phạm tâm bào lạc (厥心痛者,乃寒气客于心包络也。Quyết tâm thống giả, năi hàn khí khách vu tâm bào lạc dă). V́ lạnh làm cho kinh mạch co lại rất nhanh, khí huyết tuần hoàn bị trở ngại, kinh mạch nuôi dưỡng tim xuất hiện bệnh biến ứ trệ, v́ thế phát sinh đau tim.
4/ Ẩm thực không điều độ : Nội kinh viết: Ăn uống quá nhiều tổn thương tràng vị “饮食自倍,肠胃乃伤。” (Ẩm thực tự bội, tràng vị năi thương). V́ thế ẩm thực đói no thất thường gây tổn thương khí của tỳ vị, tỳ khí hư ảnh hưởng khí của tạng mẹ, (Hoả sinh thổ) dẫn đến tâm khí hư, tâm khí hư nên huyết dịch tuần hoàn không thuận lợi, cũng có thể dụ phát bệnh. B́nh nhân khí tượng luận trong Tố vấn viết: Đại lạc của bao tử có tên là hư lư, xuất ra phía dưới vú bên trái, cũng là mạch tông khí. “胃之大络名曰虚里,出于左乳之下,其动应衣脉宗气也。”(Vị chi đại lạc danh viết hư lư, xuất vu tả nhũ chi hạ, kỳ động ứng y mạch tông khí dă.) V́ thế khi vị khí bị tổn thương th́ mạch tông khí cũng bị tổn hại. Cái gọi là mạch tông khí thực ra là chỉ về khí của tạng tâm, tâm khí không có lực để thúc đẩy huyết dịch vận hành, nhất là khi ảnh hưởng lạc mạch nuôi dưỡng tạng tâm bị ứ trệ không thông th́ sẽ phát tác cơn đau tim. Theo đó, bệnh nhân bệnh mạch vành, nên chú ư tránh những nhân tố dụ phát bệnh, các biện pháp pḥng ngừa bệnh chính là thượng sách.
  Phương pháp biện chứng phân loại h́nh của bệnh mạch vành là ǵ?
Hiện nay đông y vẫn chưa thống nhất phương pháp biện chứng phân loại h́nh bệnh mạch vành, đại thể gồm một số loại sau:
(1) Phương pháp biện chứng phân loại h́nh theo âm dương: Như dương hư, âm hư, âm dương lưỡng hư.
(2) Phương pháp biện chứng phân loại h́nh theo tạng phủ âm dương: như tâm thận âm hư, tâm thận dương hư, tâm thận âm dương lưỡng hư.
(3) Phương pháp biện chứng phân loại h́nh theo cơn đau: Như thời kỳ đau, thời kỳ không đau.
(4) ) Phương pháp biện chứng phân loại h́nh theo tiêu bản: Như tiêu chứng : Khí trệ huyết ứ, hàn đàm huyết ứ, nhiệt đàm huyết ứ. Bản chứng: Dương khí hư nhược, âm huyết bất túc, tâm can thận âm hư, âm hư dương kháng.
Các phương pháp biện chứng phân h́nh nêu trên, tuy khác biệt, nhưng chính là những tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trên lâm sàng trong hàng ngàn năm, v́ thế có thể dùng để tham khảo.
Tác giả cho rằng phương pháp phân biệt hội chứng cần dựa trên nội dung cơ bản của hội chứng. Nội dung cơ bản của phân biệt hội chứng cần bao gồm: Nguyên nhân, vị trí bệnh, bệnh cơ (phát sinh, phát triển, biến hoá và kết cục), tính chất bệnh,… là nội dung không thể thiếu đối với mỗi hội chứng. Loại hội chứng này là cơ sở để chẩn đoán. Nếu loại hội chứng phân biệt không bao gồm 4 yếu tố cơ bản trên th́ nó sẽ không đủ cơ sở để chẩn đoán, và nó sẽ không đủ bằng chứng để lập pháp, và điều trị sẽ không có mục đích. Tất nhiên, phương pháp này là không đủ.
  
Biện chứng luận trị cụ thể một số loại h́nh bệnh mạch vành tim thường gặp là ǵ?
Biện chứng luận trị chính là đặc điểm trị liệu tật bệnh của đông y học, cũng chính là ưu thế tự thân của đông y. Bệnh biến chủ yếu của bệnh mạch vành chính là đường kinh chính và lạc mạch (đường kinh phụ) nuôi dưỡng tạng tâm phát sinh ứ trệ, làm cho khí huyết tuần hành không thông mà phát sinh các chứng trạng như đau ngực, tức ngực khó thở. Mà biến hoá bệnh lư và quá tŕnh phát triển của chính kinh và chi biệt mạch lạc nuôi dưỡng tạng tâm phát sinh ứ trệ, lại có quan hệ trực tiếp với công năng tạng phủ mất điều hoà và khí huyết âm dương mất điều hoà. V́ thế trên phương diện biểu hiện lâm sàng, ngoại trừ các chứng trạng phổ biến phát sinh khi tâm mạch ứ trệ như đau ngực hoặc lồng ngực phiền muộn, khó thở, c̣n có nhiều loại chứng trạng của công năng tạng phủ mất điều hoà và khí huyết âm dương mất điều hoà. Căn cứ vào phương pháp biện chứng phân loại h́nh đă tŕnh bày ở phần trên tiến hành biện chứng phân loại h́nh, chứng h́nh thường gặp chủ yếu gồm: Hung dương bất chấn (Dương của lồng ngực không mạnh mẽ phấn chấn), tâm mạch ứ trệ; Tâm khí âm hư, tâm mạch ứ trệ; Tâm khí dương hư, tâm mạch ứ trệ; Âm hư dương kháng, tâm mạch ứ trệ; Khí trệ huyết ứ, tâm mạch ứ trệ; Tỳ dương hư, tâm mạch ứ trệ; Vị khí thượng nghịch, tâm mạch ứ trệ; Tâm tỳ lưỡng hư, tâm mạch ứ trệ; Can uất khí trệ, tâm mạch ứ trệ.
Tiến hành biện chứng luận trị bệnh mạch vành loại h́nh dương khí của ngực suy yếu, tâm mạch ứ trệ được tiến hành như thế nào?
Vị trí của tim ở trong lồng ngực, chủ dương khí, là dương trong thái dương. Dương của lồng ngực mạnh mẽ, lực cổ động của tim tốt th́ huyết mạch lưu hành thông suốt; Dương của lồng ngực suy yếu, mạch tim ứ trệ nên lồng ngực phiền muộn, khí bị nghẹt tắc hoặc đau ngực, hoặc đau từ ngực lan sang lưng hay ngược lại, đau phóng xạ sang vai, cánh tay trái, lúc đau lúc không, chất lưỡi tím tái, rêu lưỡi mỏng có màu trắng nhầy, mạch huyền hoặc trầm hoăn. Đây là bệnh mạch vành loại h́nh dương của lồng ngực suy yếu, tâm huyết ứ trệ.
Lồng ngực chứa hai tạng tâm và phế, là nơi tụ hội của dương khí. Nếu đàm ứ gây trở ngại dương khí, làm cho dương khí của tạng tâm và tạng phế không tuyên giáng (tuyên= lan toả), tâm mạch ứ trệ không thông, th́ sản sinh các chứng trạng như lồng ngực phiền muộn, khí bị nghẹt tắc hoặc đau ngực; Nếu tâm mạch sáp trệ không thông, khí huyết không đủ để nuôi dưỡng tâm, mà khi đó tâm thống theo kinh khí phản ứng vào mạch bối du, th́ xuất hiện cơn đau từ ngực sang lưng hoặc ngược lại; Nếu cơn đau theo kinh mạch phản ứng với Thủ thái dương tiểu tràng th́ sẽ đau lan sang vai lưng và cánh tay bên trái, nếu cơn đau dọc theo kinh mạch của tạng tâm và tâm bào lạc th́ sẽ đau theo phía trong cánh tay xuống đến ngón út và ngón vô danh, chất lưỡi tím tái là biểu hiện của ứ huyết, rêu lưỡi trắng nhầy là biểu hiện của đàm trọc, mạch huyền chủ đau, chủ về đàm ẩm và sơ vữa động mạch.
[Trị pháp] :Tuyên tư thông dương, hoá ứ thông mạch
[Xử phương]: Ôn dương tuyên tư thang (Tự chế): Thành phần: Quế chi, Giới bạch, Qua lâu, Đan sâm, Xích thược, Uất kim, Ngũ linh chi, Hồng hoa, Xuyên khung, Mộc hương, sắc uống mỗi ngày 1 thang. Trong phương có Quế chi, Giới bạch, Qua lâu ôn dương tuyên tư, Mộc hương, Uất kim thông ứ trệ, Xuyên khung, Xích thược, Đan sâm, Hồng hoa, Ngũ linh chi có tác dụng hoá ứ giảm đau, toàn phương có tác dụng tuyên thông ứ trệ, khí huyết lưu sướng, lồng ngực ngừng đau. Thực nghiệm chứng minh, Đan sâm và Qua lâu có tác dụng tăng lưu lượng máu ở mạch vành tim và tăng lực bơm hút của cơ tim, v́ thế nên chú ư trọng dụng.
  
Biện chứng luận trị bệnh mạch vành loại h́nh âm hư dương kháng được tiến hành như thế nào?
Bệnh mạch vành loại h́nh âm hư dương kháng (âm hư yếu dương quá mạnh), tâm mạch ứ trệ có các biểu hiện như những cơn đau ở ngực hoặc ở vùng trước tim, dạng đau nhói, muộn thống (đau và bế tắc), kèm theo phiền muộn dễ tức giận, nhức đầu trướng đầu, ù tai, khô họng, eo gối đau ê ẩm, ḷng bàn tay bàn chân nóng, ngày nhẹ đêm nặng, chất lưỡi khá đỏ, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch huyền.
Tạng thận ở vùng eo, thận âm hư nên eo gối đau ê ẩm, âm hư sinh nội nhiệt, nhẹ th́ tay chân nóng, trường hợp nặng th́ âm không hàm chứa được dương nên sau buổi trưa bệnh tăng nặng. Đường kinh can đi lên đến đỉnh đầu, thận âm hư thuỷ không tẩm nhuận được mộc nên can dương thượng kháng (bốc lên), nhiễu loạn thanh khiếu nên đầu trướng đau, thận khai khiếu ở tai, thận âm hư can dương thượng xung nhĩ khiếu nên ù tai. Can chủ giận dữ, can dương quá mạnh, âm không liễm dương nên dễ tức giận, can hoả ảnh hưởng tạng tim gây phiền muộn, âm hư dương thịnh, tân dịch không đủ nên miệng họng khô, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng đều là biểu hiện của âm hư dương cang (mạnh), mạch huyền chủ về chứng đau hoặc bệnh gan. Tạng tâm không được nuôi dưỡng, tâm mạch ứ trệ không thông nên đau ngực. Chứng này do can thận âm hư, can dương kháng thịnh (quá mạnh), gây háo tổn tân dịch, ảnh hưởng tâm mạch, mạch lạc không kiện vận (vận chuyển mạnh), nên ứ trọc nội sinh, tâm mạch không thông mà tạo thành bệnh.
[Trị pháp] Tư âm tiềm dương, hoạt huyết hoá ứ thông mạch
[Xử phương] Ích âm tiềm dương hoạt huyết thang (Phương tự chế)
Sinh địa, Huyền sâm, Thủ ô, Nữ trinh, Cúc hoa, Đan sâm, Xích thược, Hồng hoa, Uất kim, Xuyên khung, Mộc hương. Gia giảm theo chứng trạng: Phiền muộn dễ giận dữ gia Sơn chi, Hạ khô thảo, hoảng hốt mất ngủ gia sao Táo nhân, Bá tử nhân, Dạ giao đằng, đau trên đỉnh đầu gia Cao bản, đau ngực (tim) nhiều gia Huyền hồ hoặc Nhũ hương, Một dược, đau lưng gia Tục đoạn, Bổ cốt chỉ. (chú ư thang dược này dễ gây phân lỏng, có thể gia Sa nhân 6~8g và Sinh khương để hạn chế phân lỏng,)
  
Biện chứng luận trị bệnh mạch vành loại h́nh tâm khí âm hư, tâm mạch ứ trệ được tiến hành như thế nào?
Bệnh tim lâu ngày, khí và âm bị tổn thương, tuần hoàn của máu không thông sướng nên tâm mạch bị ứ trệ. Xuất hiện đau ngực phiền muộn hoặc đau nhói, hoặc đau nhói ở ngực trái, hoặc đau âm ỉ. Cơn đau lúc đau lúc không. Kèm theo hoảng hốt thở ngắn, cơn đau tăng lên khi vận động, hoặc tinh thần mệt mỏi, không có sức, tăng nặng khi vận động nhiều, hoặc đêm đang ngủ tỉnh giấc thấy khó thở, sau khi ngồi dậy hoặc vận động nhẹ th́ các chứng trạng giảm nhẹ hoặc biến mất. Hai gối yếu mỏi hoặc ḷng bàn tay bàn chân nóng, miệng họng khô, chất lưỡi hơi đỏ hoặc có điểm ứ, rêu lưỡi trắng dầy ít tân dịch, mạch trầm tế nhuyễn hoặc trầm nhược.
[Trị pháp] Ích khí dưỡng âm, hoá ứ thông mạch.
[Xử phương] Ích khí âm thông huyết mạch thang (Tự tự phương)
Hoàng kỳ, Đảng sâm, Sinh địa, Mạch đông, Ngũ vị tử, Đan sâm, Xuyên khung, Xích thược, Hồng hoa, Uất kim, Trần b́, Mộc hương. Sắc uống ngày một thang. Trong phương có Hoàng kỳ, Đảng sâm, Sinh địa, Mạch đông, Ngũ vị ích tâm khí nuôi dưỡng tâm âm, với Xích thược, Xuyên khung, Đan sâm, Hồng hoa là các vị thuốc hoạt huyết hoá ứ, có khả năng thông sướng huyết mạch, Uất kim, Trần b́, Mộc hương điều chỉnh khí cơ, tiêu tán ứ huyết, trong đó Trần b́ có khả năng tiêu trừ tác dụng phụ của Hoàng kỳ bổ khí gây đầy bụng. Uất kim, Đan sâm, Xuyên khung có tác dụng giảm nhẹ t́nh trạng sơ vữa động mạch.
Biện chứng luận trị bệnh mạch vành loại h́nh tâm dương hư, tâm mạch ứ trệ được tiến hành như thế nào?
Tâm dương hư, tâm mạch ứ trệ có thể do tâm âm hư, âm tổn cập dương chuyển hoá thành, cũng có thể do tố chất cơ thể dương hư, ảnh hưởng tạng tâm tạo thành bệnh. Có các chứng trạng như ngực phiền muộn, đau ngực, hoặc đau ngực trái (đau vùng tâm tiền khu (vùng trước tim)), lúc đau lúc không, kèm theo hoảng hốt hơi thở ngắn, mệt mỏi yếu sức, sắc mặt trắng xanh, sợ lạnh, tay chân lạnh, hoặc tay chân mát, hoặc khi gặp lạnh dễ phát tác, chất lưỡi ảm đạm hoặc có điểm ứ, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch trầm tế hoặc trầm tŕ.
Tâm chủ huyết mạch, dương chủ sưởi ấm. Tâm dương hư không có lực thúc đẩy huyết dịch tuần hoàn toàn thân, nên toàn thân mỏi mệt yếu sức, dương hư không thể sưởi ấm tứ mạt (bàn tay và bàn chân), nên bn sợ lạnh chân tay lạnh, tâm dương hư không có lực thúc đẩy huyết dịch tuần hành trong tâm mạch, tâm huyết không đủ nên hoảng hốt thở ngắn. Chất lưỡi tím nhạt là biểu hiện của dương hư, ứ điểm là biểu hiện của chứng huyết ứ. Mạch trầm tŕ là dương khí không đầy đủ. Chứng này thường do khí hư lâu ngày phát triển thành tâm dương hư, chính là khi gặp lạnh dễ phát tác. “Dương hư sinh ngoại hàn” , khi lạnh kinh mạch co lại rất nhanh, tâm mạch khí huyết tuần hành không thông sướng, tâm không được nuôi dưỡng, xuất hiện lồng ngực phiền muộn, đau ngực.
[Trị pháp]: Ôn dương ích khí, hoá ứ thông mạch.
[Xử phương] : Thánh dũ thang gia giảm.
Hoàng kỳ, Đảng sâm, Đương quy, Mạch đông, Ngũ vị, Hồng hoa, Đan sâm. Xích thược, Xuyên khung, Phụ tử. Mạch tŕ gia Nhục quế, Sợ lạnh gia Can khương. Sắc uống ngày 1 thang.
Trong phương có Hoàng kỳ, Đảng sâm, Nhục quế, Phụ tử bổ khí ôn thông, khí huyết lưu sướng. Đương quy, Mạch đông, Ngũ vị dưỡng âm hoạt huyết, kết hợp với Hoàng kỳ, Đảng sâm, Quế Phụ làm cho dương được âm hỗ trợ tạo thành nguồn không cạn kiệt, Xích thược, Xuyên khung, Hồng hoa, Đan sâm hoá ứ huyết, thông tâm mạch, hoạt huyết giảm đau. Như thế, tạng tâm dương khí vượng. âm huyết sung túc, ứ trệ hoá giải, cơn đau thắt ngực lập tức ngưng lại.
Biện chứng luận trị bệnh mạch vành loại h́nh khí trệ huyết ứ, tâm mạch ứ trệ được tiến hành như thế nào?
Bệnh mạch vành loại h́nh khí trệ huyết ứ, tâm mạch ứ trệ có các chứng trạng như: Đau nhói ở vùng tim hoặc đau phiền muộn( muộn thống), đau âm ỉ, điểm đau cố định, lúc đau lúc không, kèm theo ngực khó chịu thở ngắn, vội vă bất an, chất lưỡi tím tái ảm đạm có ứ điểm, rêu lưỡi dày, mạch huyền.
Chứng này thường do khí cơ uất trệ hoặc can khí uất trệ hoặc do tỳ khí uất kết, khí cơ không thuận lợi, ứ trọc nội sinh, bám vào thành mạch đạo, huyết mạch tuần hành sáp trệ không thuận lợi mà h́nh thành bệnh. V́ khí là tướng soái của huyết, huyết là mẹ của khí, khí trệ và huyết ứ luôn luôn có đối ứng nhân quả, do khí trệ dẫn đến huyết hành bị trở ngại mà ứ tích lại, huyết càng ứ, khí càng trệ. Khí trệ nên lồng ngực phiền muộc, huyết ứ nên ngực đau nhói, khí trệ huyết ứ tâm mạch không được nuôi dưỡng đầy đủ nên thần trí bất an, bồn chồn không yên.
[Trị pháp] Lư khí hoạt huyết, hoá ứ thông mạch.
[Xử phương] Huyết phủ trục ứ thang gia giảm
Thành phần gồm: Đương quy, Sinh địa, Đào nhân, Hồng hoa, Ngưu tất, Xích thược, Xuyên khung, Uất kim, Đan sâm, Tam thất, Sài hồ, Chỉ xác, Cát cánh, Cam thảo, đau nhiều gia Nhũ hương, Một dược. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Phương thang chủ trị huyết ứ trong ngực, huyết tuần hành không thư sướng gây đau ngực, đau tim, trong phương có Đương quy, Xuyên khung, Xích thược, Đào nhân, Hồng hoa hoạt huyết hoá ứ, vị Ngưu tất thông huyết mạch, dẫn ứ huyết xuống dưới, Sài hồ sơ can giải uất, thăng đạt thanh dương, Cát cánh, Chỉ xác khai mở lồng ngực, thuận khí, làm cho khí hành để huyết hành, Sinh địa lương huyết tư âm (mát máu bổ âm), phối Đương quy bổ máu nhuận táo (trừ khô ráo), trừ ứ trệ mà không gây tổn thương chính khí, đau nhiều gia Nhũ hương, Một dược có tác dụng hoạt huyết giảm đau, như vậy, khí đă hành, huyết ứ được hoá thông, tâm mạch được nuôi dưỡng, mọi chứng trạng tự trừ.
Bệnh mạch vành loại h́nh vị khí thượng nghịch. Tâm mạch ứ trở được tiến hành biện chứng như thế nào?
Loại h́nh có các chứng trạng như: Đau dữ dội ở ngực , hoặc ngực bên trái (tâm tiền khu) hoặc đau ở vị quản, lồng ngực phiền muộn thở gấp, cơn đau kéo dài và nặng, có thể đạt tới 1,2 giờ hoặc nhiều giờ, uống Tiêu toan cam du phiến hoặc Quan tâm tô hiệp hương hoàn đều vô hiệu. Kèm theo lợm giọng ẩu thổ, ức bụng trướng, rêu lưỡi trắng mỏng, chất lưỡi b́nh thường, nếu kéo dài một số ngày không giảm, rêu lưỡi sẽ dày lên, chất lưỡi chuyển hồng, mạch thường trầm tế hoặc tế sác.
Trên lâm sàng loại h́nh này thường gặp ở bệnh mạch vành nghiêm trọng hoặc nghẹt tắc cơ tim, thường do các loại chứng h́nh khác đột nhiên đau đớn tăng nặng, phát tác liên tục, cơn đau kéo dài gây ra, nhưng cũng có khi vừa phát bệnh đă tăng nặng mà xuất hiện loại h́nh này.
Bệnh này chuyển biến từ cấp trọng chứng, do cơn đau ngực phản phục phát tác, huyết lưu trong tạng tâm chậm. cung cấp máu không đủ, dần dần tâm mạch v́ ứ trệ mà biến thành ứ trở không thông, nên đau kịch liệt ở giữa ngực hoặc ngực trái không giảm. Uống các loại thuốc Phương hương ôn thông mà không giảm, là biểu hiện của tâm mạch bị ứ trở nghiêm trọng, rất nhiều khả năng phát sinh nghẹt tắc cơ tim cấp tính, cần phải cảnh giác cao độ. Tâm hung đau kịch liệt không đỡ, khí cơ của vị tràng rối loạn, vị khí thượng nghịch nên xuất hiện lợm giọng nôn ói, ức bụng trướng muộn, mạch tế sác là biểu hiện của thống thậm (đau kịch liệt) tổn thương khí gây ra. Rêu lưỡi chuyển dày, chất lưỡi biến thành màu hồng, thường là dự báo khả năng nghẹt tắc cơ tim cấp tính.  
[Trị pháp]: Hoà vị giáng nghịch, hoá ứ thông mạch.
[Xử phương] : Ôn đảm thang gia phương hương hoá ứ dược.
Dùng Trần b́, Trúc nhự, Phục linh, Hồng hoa, Xuyên khung, Pháp bán hạ, Xích thược, Đại giả thạch, Công Đinh hương, Đàn hương, Tam thất phấn (uống riêng), Ngô du, Cam thảo, sắc uống ngày 1 thang.
V́ đây là chứng nguy cấp, trước tiên cần giảm đau trị ẩu thổ, đồng thời có thể châm các huyệt như: Nội quan, Chiên trung, Tâm du, Thần môn, dùng tả pháp, nếu cần nên xử lư theo phương pháp trị liệu nghẹt tắc cơ tim của y học hiện đại, không nên chậm trễ.

Biện chứng luận trị bệnh mạch vành loại h́nh can khí uất trệ, tâm mạch uất trệ được tiến hành như thế nào?
Tạng can chủ sơ tiết, trong đó có một phương diện trọng yếu là điều tiết khí cơ, khi công năng sơ tiết của tạng can b́nh thường, th́ khí cơ của cơ thể thuận sướng, công năng hoạt động của các tạng phủ b́nh thường. Nếu công năng sơ tiết của tạng can thất thường, có thể xuất hiện can khí uất kết, can uất khí trệ, huyết hành bị trở ngại, lâu ngày h́nh thành huyết ứ hoặc thũng khối, tạng can và tạng tâm có quan hệ tương sinh (Mộc sinh hoả), nên quan hệ giữa hai tạng vô cùng mật thiết, tâm mạch uất trệ, luôn luôn có thể do can khí uất trệ gây nên. Biểu hiện trong lâm sàng là: Đau nhói ở ngực trái, hoặc muộn thống, lúc đau lúc không, ngực, cạnh sườn trướng đầy, thích thở dài, dễ tức giận, chất lưỡi tối hoặc có ứ điểm, mạch thường huyền.
Can thuộc mộc, tâm thuộc hoả, là quan hệ mẫu tử, khí cơ của tạng can sơ tiết tốt, có lợi cho huyết mạch của tâm lưu thông, ngược lại sẽ xuất hiện tâm mạch bị uất trệ, khi mạch lạc của tâm phát sinh ứ trệ khí huyết không lưu thông sẽ xuất hiện đau ở ngực trái. Vị trí của gan ở hạ sườn phải, khi can khí uất trệ, cạnh sườn phải trướng đầy, ảnh hưởng lên ngực nên ngực và cạnh sườn đau trướng, dễ tức giận, hay thở dài. Chất lưỡi tối có ứ điểm là biểu hiện của huyết ứ, mạch huyền chủ bệnh tại tạng can hoặc chứng đau.
[Trị pháp]: Sơ can lư khí, hoá ứ thông mạch
[Xử phương]: Sài hồ sơ can tán hợp Đan sâm ẩm gia giảm. Sài hồ, Hương phụ, Chỉ xác, Sinh đí, Đương quy, Xích thược, Ngưu tất, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa, Đan sâm, Đàn hương, Cam thảo, trong phương có Sài hồ, Chỉ xác, Hương phụ sơ can giải uất, Đào nhân, Hồng hoa, Xuyên khung, Xích thược, Đan sâm hoạt huyết hoá ứ, sơ thông mạch lạc của tim, Đương quy, Sinh địa, Ngưu tất dưỡng huyết hành huyết, hợp dụng toàn phương, làm cho can khí sướng đạt, tâm mạch lưu thông, tâm mạch thông, nên cơn đau có thể hoăn giải.

Biện chứng luận trị bệnh mạch vành loại h́nh tâm tỳ lưỡng hư được tiến hành như thế nào?
“Tâm chủ huyết mạch” (心主血脉), huyết dịch tuần hành trong mạch, đều nhờ lực thúc đẩy của tạng tâm. “Tạng tỳ chủ vận hoá” (脾主运化), là nguồn sinh hoá của khí huyết, sự sinh thành và vận hành của huyết dịch tương quan mật thiết với hai tạng tâm và tỳ nêu trên. Nếu tâm khí không đủ, không có lực thúc đẩy huyết dịch, tạng kỳ kiện vận không tốt, huyết dịch sinh thành giảm, lâu ngày h́nh thành tạng tâm và tạng tỳ cùng hư yếu, khí huyết suy, tâm mạch ứ trệ. Có các chứng trạng như: Ngực đau tức hoặc đau ở ngực trái, lúc đau lúc không, hoảng hốt thở ngắn, mất ngủ hay mơ, chân tay mỏi mệt hoặc ăn uống khó tiêu, hoặc ăn vào đầy bụng, rêu lưỡi trắng mỏng, đầu lưỡi có ứ điểm, mạch trầm hoăn hoặc trầm tế.
Căn cứ theo biện chứng, tâm khí hư nên hoảng hốt thở ngắn, tỳ kiện vận kém nên tứ chi yếu mỏi hoặc ăn ít tiêu hoá kém, tạng tỳ hoá sinh khí huyết không b́nh thường nên biến sinh ra thấp trọc đàm ẩm, bám vào mạch đạo, tâm mạch ứ trệ, khí huyết khó thông nên xuất hiện chứng đau ngực hoặc đau ngực trái, lưỡi có ứ điểm là biểu hiện của huyết ứ, mạch trầm hoăn chủ tỳ hư, mạch tế chủ khí huyết không đầy đủ.
[Trị pháp]: Kiện tỳ dưỡng tâm, hoá ứ thông mạch.
[Xử phương] : Quy tỳ thang gia giảm
Đảng sâm, Hoàng kỳ, Toan táo nhân, Bạch truật, Phục linh, Đương quy, Xuyên khung, Hồng hoa, Đan sâm, Viễn chí, Mộc hương, Cam thảo, trong phương có Đảng sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Phục linh kiện tỳ ích khí, Đương quy, Táo nhân, Viễn trí dưỡng tâm an thần, Mộc hương hành khí hoá trệ, phối với Đương quy, Xuyên khung, Hồng hoa, Đan sâm hoá ứ thông mạch, chính là bổ cả hai tạng tâm tỳ, khí huyết lưu sướng, chứng đau tim có thể khỏi. (Chứng này thường gặp ở những phụ nữ bị lưu thai nhiều lần. Kinh nghiệm của người dịch)
Bệnh mạch vành loại h́nh tỳ vị hư hàn, tâm mạch ứ trệ được tiến hành biện chứng như thế nào?
Tỳ vị ở trung tiêu là trụ cột của ngũ tạng, chủ vận hoá và là căn bản của hậu thiên, tỳ chủ thăng thanh, vị chủ giáng trọc, công năng tỳ vị b́nh thường th́ thăng giáng có thứ tự, nạp vận b́nh thường. Nếu no đói vô độ, lao quyện gây tổn thương tạng tỳ, lâu ngày khí của tỳ vị bị hư tổn, hàn tà xâm nhập, tạo thành chứng tỳ vị hư hàn, v́ thế thổ không sinh kim, mộc không sinh hoả nên tâm dương hư suy, tâm mạch ứ trệ. Xuất hiện chứng trạng ngực bị nghẹt tắc và đau, đau lan xuống vị quản, thích xoa nắn ấm áp, khi đói bệnh dễ phát tác, sau khi ăn giảm nhẹ, bệnh nhân hồi hộp, hơi thở ngắn, chân tay mỏi mệt, sắc mặt vàng úa, chất lưỡi tím nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng nhờn, mạch nhu nhược.
Bệnh do trung tiêu hư hàn gây ra, thăng giáng không đúng, trung tiêu kiện vận thất thường, tông khí ở lồng ngực không hỗ trợ, nên khó có thể “Quán tâm mạch, hành hô hấp” (Thông suốt tâm mạch, giúp hô hấp). Trị pháp: Kiện trung bổ hư, hoà lư hoăn cấp, dùng Hoàng kỳ kiến trung thang gia giảm. Thành phần gồm Chích Hoàng kỳ, Tửu sao Bạch thược, Quế chi, Đương quy, Đan sâm, Di đường, Cam thảo, Đại táo, Sinh khương. Trong phương có Bạch thược toan khổ (chua đắng), tiết can hoà doanh, hợp Di đường hoăn cấp bổ trung, bồi bổ kiện vận trung châu, thêm sinh khương, Quế chi cay ấm để thông dương, hiệp hoà doanh vệ, Cam thảo, Đại táo cam ôn bổ hư, điều hoà các vị thuốc, trọng dụng chích Hoàng kỳ ôn bổ tỳ vị để nuôi dưỡng tông khí trong ngực, dùng Đương quy, Đan sâm, Xuyên khung hoạt huyết thông mạch, toàn phương có tác dụng bổ dưỡng và ấm áp trung châu, hư tổn và ứ trệ được thông hoá nên cơn đau được hoá giải.
Tam thất
Tác dụng củaTam thất đối với bệnh mạch vành như thế nào?
Công hiệu chủ yếu của Tam thất là hoá ứ và cầm máu, hoạt huyết giảm đau, thường dùng cho các loại xuất huyết và ứ huyết bên trong và bên ngoài cơ thể. Tam thất có đặc điểm là cầm máu và không lưu ứ, hoạt huyết nhưng không xuất huyết. Trên lâm sàng việc sử dụng Tam thất điều trị bệnh mạch vành có khá nhiều ưu điểm. Nghiên cứu dược lư hiện đại cho thấy Các saponin trong Tam thất và glycoside flavonoid có trong Tam thất có thể làm giăn nở đáng kể các động mạch vành, tăng lưu lượng máu mạch vành, giảm tiêu thụ oxy của cơ tim và tăng cường khả năng chịu đựng t́nh trạng thiếu oxy của cơ tim.
Tam thất có tác dụng tích cực đối với cơn đau thắt ngực, tác dụng kéo dài, không có tác dụng phụ của thuốc giăn mạch nói chung, có tác dụng điều ḥa nhịp tim hai chiều, đối với bệnh nhân nhịp tim nhanh, sau khi sử dụng, nhịp tim có thể giảm xuống mức tương đối b́nh thường, và có thể tăng dần nhịp tim thông qua quá tŕnh điều trị lâu dài cho những bệnh nhân mắc chứng nhịp tim chậm.
Trường hợp nhồi máu cơ tim diện rộng kết hợp với sốc tim th́ dùng thuốc tân dược là chính thận (giáp thận thượng tuyến tố?), phó thận(Adrenaline?), luân phiên sử dụng isoproterenol, nếu ngừng thuốc mà huyết áp tụt, sốc th́ chuyển sang dùng bột Tam thất 3 gam, dùng Sinh mạch tán sắc nước uống bột Tam thất, mỗi ngày một liều, có khi chỉ cần dùng hai ba liều là có thể loại bỏ các loại thuốc kể trên, huyết áp ổn định.
Do quá tŕnh lâu dài của bệnh mạch vành tim, xơ vữa động mạch liên quan đến các tổn thương rộng răi của thành mạch, và do đó ḷng mạch có các mức độ hẹp khác nhau. Thực tế lâm sàng đă chứng minh rằng để làm giảm và làm sạch hàm lượng cholesterol và lipoprotein trong máu, không nhất thiết phải là một hành động ngắn hạn mà nó quyết định tính chất lâu dài và liên tục của thuốc. Theo quan sát lâm sàng, phương pháp điều trị chính bằng Tam thất có thể làm giảm đáng kể chất béo trung tính trong ṿng 3 tháng, và có thể cải thiện đoạn ST-T của điện tâm đồ sau nửa năm. Tác giả cho rằng nên dùng Tam thất để điều trị bệnh mạch vành tim với lượng nhỏ trong thời gian dài và thời gian tốt nhất là không dưới nửa năm, liều lượng 3 gam mỗi lần là lư tưởng nhất cho người bệnh với hội chứng thiếu hụt nên bổ sung bột nhân sâm Hoa Kỳ đồng thời sẽ có tác dụng tốt hơn.
Tại sao trị liệu chứng đau tim lại không nên lạm dụng phương pháp hoạt huyết hoá ứ?
“Tâm thống”( 心痛) Đau tim trong y học Trung Quốc thuộc phạm trù bệnh mạch vành và đau thắt ngực trong y học hiện đại. Y học cổ truyền Trung Quốc cho rằng “bất thông tắc thống”(不通则痛),không thông th́ đau và đau tim là do tim mạch bị ứ trệ gây ra, v́ vậy, việc trên lâm sàng sử dụng các đơn thuốc hoạt huyết hoá ứ là rất phổ biến. Tuy nhiên, trên lâm sàng thường có xu hướng bỏ qua biện chứng luận trị, lạm dụng khuynh hướng hoạt huyết hoá ứ. Cần lưu ư rằng bệnh mạch vành có hư và thực, dù là thực chứng cũng có liên hệ là bản hư tiêu thực (trên căn bản là tạng phủ cơ thể suy yếu), thực chứng nên dùng phép hoá ứ tuyên thông, hư chứng th́ tăng cường phù chính, bồi bổ; Nếu không phân biệt được hư và thực, mà chỉ tiêu tán ứ huyết một cách mù quáng, là điều không nên làm.
Bệnh mạch vành tuy ở tim nhưng lại liên quan mật thiết đến các cơ quan khác. Phải nh́n tổng thể một cách biện chứng th́ mới có thể kê đơn thuốc phù hợp với cơ chế bệnh. Từ lâu "Nội kinh" đă đề cập đến “Thận tâm bệnh” (肾心病), "Vị tâm bệnh" (胃心病), "Tỳ tâm bệnh " (脾心病), "Can tâm bệnh" (肝心病), “Phế tâm bệnh” (肺心病), điều này cho thấy ngũ tạng đ́nh trệ đều có thể gây ra chứng đau tim. Về việc chẩn đoán và điều trị bệnh đau tim, "Nan kinh" chỉ ra rằng: “Tổn kỳ tâm giả, điều kỳ doanh vệ” (损其心者,调其营卫)Tạng tâm bị tổn hại th́ nên điều hoà doanh và vệ. Tiết Bảo Điền tiên sinh, một danh y thời nhà Thanh, viết trong {Bắc Hành Nhật Kư}: Lư thuyết “Vinh vệ vi huyết mạch chi sở sinh, tâm vi sở chủ; Nhiên vinh vệ khởi vu trung châu, can phế tỳ thận thực trợ kỳ dưỡng, dưỡng kỳ tứ tạng tất tâm tự an dă”. (荣卫为血脉之所生,心为之主;然荣卫起于中州,肝肺脾肾实助其养,养其四脏则心自安也)td:Vinh vệ là nơi sinh ra huyết mạch, là nơi tâm làm chủ; Mà vinh vệ khởi từ trung châu, can phế tỳ thận hỗ trợ nuôi dưỡng, nên nuôi dưỡng tứ tạng th́ tạng tâm tự an. Điều này cực kỳ chính xác, hơn nữa đây là những điều người xưa chưa phát hiện, có thể dùng làm chỉ nam trên lâm sàng. Như bệnh mạch vành kèm theo tâm khí bất túc, xuất hiện chứng trạng lồng ngực phiền muộn thở ngắn, tim đau âm ỉ, rất hồi hộp, thấp thỏm bất an, miệng khô ít tân dịch, rêu lưỡi mỏng, mạch tế sác, trị bệnh tạng tâm tất phải kiêm bổ trung, Lạc mạch lớn của dạ dày gọi là hư lư (vị trí ở bên ngực trái chỗ đỉnh tim đập), tim rất hồi hộp, là tông khí tiết ra. Chứng này rất kỵ dùng phép hoạt huyết hoá ứ, nên dùng Sinh mạch tán hợp thang Tứ quân gia Ngọc trúc, Quế chi, Bá tử nhân để ích tâm khí, dưỡng tâm doanh, thông tâm mạch kiêm phù trợ trung khí, thu được hiệu quả khá tốt.
Làm thế nào để giữ vững nguyên tắc tiêu bản hoăn cấp trong điều trị bệnh mạch vành?
Một trong những nguyên tắc điều trị bệnh mạch vành tim là: Bệnh khẩn cấp th́ điều trị tiêu (ngọn), bệnh hoà hoăn th́ điều trị bản (gốc). Nói cách khác, khi bắt đầu xuất hiện những cơn đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim, bệnh nhân bị bệnh mạch vành phải được cấp cứu khẩn cấp, và việc điều trị chủ yếu là làm thuyên giảm hoặc loại bỏ t́nh trạng nguy kịch của bệnh nhân càng sớm càng tốt. Trong trường hợp chưa bị bệnh hoặc đang trong t́nh trạng bệnh không nặng th́ điều trị căn bản là chủ yếu, điều chỉnh âm dương nội tạng thiên thịnh thiên suy để đạt được mục đích cường tráng thân thể, giảm số lần phát tác hoặc giảm nhẹ mức độ phát tác của bệnh. Tuy nhiên việc này không đơn lẻ và tách rời mà là hỗ tương liên quan và chiếu cố nhau. “Nhân nhân nhi nghi. Cấp tắc trị tiêu, hoăn tắc trị bản” (因人而宜。急则治标,缓则治本) Cần chú trọng xử lư theo nguyên tắc điều trị các triệu chứng và nguyên nhân gốc rễ. Điều trị dựa trên phân biệt hội chứng phù hợp với từng cá nhân. Trong giai đoạn phát tác của bệnh nên chủ yếu điều trị tiêu kèm theo điều trị căn bản, chú tâm vào cục bộ, lại cũng chú ư điều chỉnh tổng thể. Chú trọng cục bộ chính là cải thiện bệnh biến ứ trệ của các kinh mạch chính và các chi biệt mạch lạc nuôi dưỡng tạng tâm. Cũng chính là cải thiện được trạng thái ứ trệ của mạch vành, từ đó biến “Bất thông tắc thống” thành “Thông tắc bất thống” (“不通则痛”为“通则不痛) biến không thông th́ đau thành thông th́ không đau. Điều chỉnh chỉnh thể, chính là điều tiết sửa chữa kinh mạch tạng phủ, công năng khí huyết với t́nh trạng thiên thịnh thiên suy của tạng phủ, khiến không tái sản sinh ứ trọc và thấp trọc, để khống chế sự phát triển của bệnh này, diệt trừ căn nguyên của bệnh.
Cơ chế điều trị bệnh mạch vành bằng cách khai thông mạch tim và giảm đau của Trung y là ǵ?
Khi bị bệnh mạch vành tim, dù là hội chứng nào đi chăng nữa th́ tức ngực và đau tim cũng là triệu chứng chính và việc điều trị là dùng phương pháp khai thông mạch để đạt được hiệu quả giảm đau, cơ chế khai thông tâm mạch để giảm đau là ǵ? Ai cũng biết tim mạch bao gồm các kinh mạch chính và các nhánh nuôi dưỡng tim, là kênh mà khí và máu lưu thông qua tim, là cơ sở vật chất để tim liên tục thu được khí và máu. dinh dưỡng để duy tŕ các hoạt động sinh lư b́nh thường. Khi sự ứ trệ của các kinh mạch dinh dưỡng của tim đến một mức độ nhất định, người bệnh sẽ có các triệu chứng như đau tức ngực, tắc khí, khó thở. Lúc này, mạch của tim bị ứ trệ phần lớn là do khí uất trệ không thuận lợi, thuốc điều ḥa khí (lư khí dược) có thể khai thông khí, khí cơ thông suốt sẽ tạo điều kiện cho khí huyết lưu thông. Thuốc hoạt huyết hoá ứ có thể cải thiện hoặc tiêu trừ trạng thái ứ trệ của huyết dịch trong mạch lạc nuôi tim, mà sự giảm nhẹ hoặc tiêu trừ ứ trệ trong kinh mạch th́ có lợi cho huyết dịch tuần hoàn được thông suốt, đồng thời cũng có lợi cho quá tŕnh mạch đạo bị sơ vữa hồi phục b́nh thường, v́ thế thuốc lư khí hoạt huyết có tác dụng khai thông mạch lạc nuôi tim và mạch lạc trên toàn thân, khiến cho tuần hoàn trong mạch lạc nuôi tim được cải thiện thông suốt, từ đó chứng đau thắt ngực được hoăn giải. Người ta thường nói: “Khí hành tắc huyết hành, khí trệ tắc huyết ứ.” (气行则 血行,气滞则血瘀。) Khí tuần hành th́ huyết tuần hành, khí trệ th́ huyết bị ứ. Được nuôi dưỡng liên tục th́ tâm khí không suy, chính là đạo lư này.
Các phương pháp phổ biến của Y học Trung Quốc để điều trị bệnh mạch vành là ǵ?
Việc điều trị bệnh mạch vành trong y học cổ truyền căn cứ hội chứng khác nhau trên lâm sàng, có nhiều phương pháp điều trị, hiện nay các phương pháp điều trị như hoạt huyết (thúc đẩy tuần hoàn máu), hoá ứ (loại bỏ huyết ứ), phương hương ôn thông, bổ dương, dưỡng âm, tư âm tiềm dương, Ích khí dưỡng âm là những phương pháp phổ biến. Được tŕnh bày như sau:
1/Phép hoạt huyết hoá ứ: Phương pháp này thích hợp với những bệnh nhân bệnh mạch vành thuộc tâm huyết ứ trở, thường thấy các chứng trạng như tức ngực, đau tim, điểm đau cố định, đau như dùi đâm, chất lưỡi tím sẫm, hoặc có chấm xuất huyết dưới lưỡi, và mạch trầm huyền hoặc trầm sáp, sử dụng phương pháp điều trị này, có thể khai thông mạch tim, tiêu tán ứ trệ, chấm dứt cơn đau tim.
2/ Phương hương ôn thông pháp: Một số bệnh nhân kinh lạc bị ứ trệ do nhiễm lạnh dẫn đến dương khí ở lồng ngực không đủ, tâm dương không lan toả (bất tuyên), mạch tim bị nghẹt tắc, khởi phát đau tim, có thể dùng phương pháp trị liệu Phương hương ôn thông, tức là “hàn tắc ngưng ôn tắc hành” (寒则凝,温则行)lạnh gây ngưng trệ, ấm nóng th́ tuần hành. Thuốc phương hương ôn thông là những vị thuốc có hương thơm và ấm áp, ôn dương khứ hàn, khai thông huyết mạch.
3/ Phương pháp Thông dương tuyên tí: Ngực là “Thanh dương chi phủ”(清阳之府)là nơi ở của thanh dương (thanh dương là dương ở trong âm), nơi dương khí bốc lên, khí thông suốt khi tâm dương dồi dào, nhưng khi hàn từ bên ngoài xâm phạm vào hoặc bên trong có âm hàn đàm thấp, th́ dương của lồng ngực bị ảnh hưởng, khí cơ không thông suốt dẫn đến lồng ngực phiền muộn, đau tim, trên lâm sàng thường sử dụng trị pháp ôn thông tâm dương để khai thông mạch lạc.
4/ Phương pháp bổ âm tiềm dương (Bổ âm để điều trị chứng dương quá mạnh), phương pháp này thích hợp với chứng tâm thận âm hư của bệnh mạch vành, các triệu chứng tức ngực và đau, hồi hộp, đổ mồ hôi đêm, buồn bực mất ngủ, chóng mặt ù tai, eo gối mềm yếu, mạch tế sác hoặc tế sáp. Phương pháp này bồi bổ âm của tâm thận bệnh nhân có tác dụng điều chỉnh phần gốc của bệnh, lại có thể đè nén dương thượng phù là điều chỉnh phần ngọn của bệnh, từ đó âm dương được hài hoà cân đối, tiêu trừ được chứng đau ngực.
5/ Phương pháp bổ khí, dưỡng âm: Phù hợp với chứng khí âm lưỡng hư của bệnh mạch vành, triệu chứng gồm: Tức ngực, đau âm ỉ, lúc đau lúc không, hồi hộp thở ngắn, mệt mỏi ngại nói, khi mỏi mệt chứng trạng tăng nặng, mạch tế nhược vô lực hoặc kết đại. Phép điều trị này dùng cho loại h́nh hư chứng, không dùng cho thực chứng, nếu không đơn thuần là hư chứng th́ không được sử dụng.
Làm thế nào để điều trị bệnh mạch tim có hai loại h́nh hội chứng hỗ tương nhau?
Trong điều trị lâm sàng bệnh mạch vành của y học cổ truyền Trung Quốc, đôi khi có thể thấy cả hai loại h́nh hội chứng hỗ tương nhau, lúc này phương pháp điều trị và đơn thuốc cũng nên thay đổi theo diễn biến của bệnh. Trước hết, chúng ta nên cân nhắc xem loại hội chứng nào là chính, loại nào là phụ. Ví dụ, những người dương khí ở lồng ngực không phấn chấn, tâm mạch bị ứ nghẽn lại kèm theo khí âm hư, có các chứng trạng như : Ngực bị đau, phiền muộn, đau từ ngực sang lưng, đau từ lưng sang ngực, lại thêm mỏi mệt yếu sức, miệng họng khô, mạch trầm huyền v.v…Nhưng không có chứng trạng hơi thở ngắn, hoảng hốt. Dùng Trị pháp: Tuyên tí thông dương, hoá ứ thông tâm mạch, kèm theo ích khí. Dùng phương Tuyên tí thông mạch thang gia Đảng sâm, Mạch đông để điều trị, là đồng thời có thể thu hiệu quả. Ngược lại, nếu tâm khí âm hư, tâm mạch ứ trệ là chính, kèm theo hung dương không phấn chấn (là phụ), bệnh nhân có các chứng trạng như ngực đau nhói, lúc đau lúc không, dễ phát tác lúc mỏi mệt, kèm theo ngực phiền muộn, nghẹt thở, thở ngắn hoảng hốt, mệt mỏi không có lực, khi hoạt động bệnh tăng nặng, miệng họng khô, chất lưỡi tối, đầu lưỡi hồng, mạch trầm hoăn vô lực. Điều trị nên dùng phương pháp Ích khí âm, mạnh tâm lực, hoá ứ thông mạch, kèm theo tuyên tí thông dương, dùng phương Ích khí thông mạch thang gia Qua lâu, Giới bạch để điều trị cả hai hội chứng nêu trên, là điều trị đúng t́nh trạng của bệnh.
Đông y đối với chứng hung tí tiến hành dị bệnh đồng trị như thế nào?
Hung tí là tên một loại bệnh lư được Đông y chẩn đoán với chứng trạng chủ yếu là đau ở lồng ngực, nó có thể xuất hiện trong các loại bệnh tật ở hệ thống tâm huyết quản của tây y. {Phổ Tế Phương} ở chương bệnh tạng tâm viết: “Phàm tâm bệnh giả, hung trung thống........”( 凡心病者,胸中 痛……)khi tạng tâm bị bệnh, đau trong lồng ngực. Các bệnh theo y học hiện đại như bệnh mạch vành đau thắt ngực, phong tâm bệnh, viêm cơ tim, viêm chủ động mạch, tâm tạng thần kinh quan năng chứng đều có thể xuất hiện hội chứng đau ngực nêu trên. Căn cứ nguyên tắc dị bệnh đồng trị (bệnh khác nhau mà điều trị giống nhau), tuy bệnh tật khác nhau, chỉ cần hội chứng lâm sàng biểu hiện loại h́nh chứng tương đồng, là có thể căn cứ theo chứng để lập pháp, theo pháp để tuyển chọn phương, tuỳ chứng để dụng dược, th́ có thể thu được hiệu quả trị liệu tương đồng. Theo chẩn đoán của tây y là bệnh khác nhau, nhưng theo quan điểm biện chứng luận trị của trung y, chỉ cần xuất hiện loại h́nh chứng tương đồng là có thể tuyển dụng phương dược thích ứng với chứng đó để tiến hành trị liệu. Điều này có thể gọi là “Đối chứng trị liệu” (对证治疗). Nhưng khác với “Đối chứng trị liệu”(对症治疗) v́ “chứng”(证) là thông qua biểu hiện của hội chứng, thể trưng* và các tư liệu thu được qua các kiểm tra khác trên lâm sàng, tiến hành phân tích t́m ra nguyên nhân bệnh, vị trí bệnh, cơ chế bệnh, tính chất bệnh, sau đó có được cách hiểu hợp lư một cách toàn diện, được gọi là hội chứng tương tự. Hội chứng này chính là biện chứng chẩn đoán, mà “Chứng (症) là chứng trạng, “đối chứng trị liệu ” (对症治疗) chỉ là chọn thuốc có thể hoăn giải một hoặc một vài triệu chứng tiến hành trị liệu. Nói chung là không đầy đủ nhận thức hợp lư, không thể tóm tắt nội dung của “hội chứng”. Do đó, trung y đối với trị liệu hội chứng tắc nghẽn lồng ngực (hung tư) bất luận là loại bệnh tật nào của hệ thống tâm huyết quản của tây y, chỉ cần có biểu hiện loại h́nh hội chứng tương đồng, th́ sẽ dùng trị pháp và phương dược tương đồng, mà có thể thu được hiệu quả trị liệu giống nhau, đó chính là dị bệnh đồng trị (bệnh khác nhau mà điều trị giống nhau).
Cách điều trị đúng cách cho bệnh nhân bị bệnh mạch vành phức tạp và cơn đau thắt ngực như thế nào?
Đối với những bệnh nhân bị bệnh mạch vành và đau thắt ngực, dù dùng thuốc Đông y hay Tây y, chỉ cần dùng một loại phương, một loại thuốc là có thể đạt được hiệu quả, đối với những bệnh nhân có t́nh trạng bệnh phức tạp th́ có khi dùng nhiều đơn thuốc, nhiều loại thuốc cũng khó thu được hiệu quả. Đúng là có thể nói : “Thiên phương dị đắc, nhất hiệu nan cầu.” (千方易 得,一效难求。)Ngàn phương thuốc th́ dễ, mà để thu được hiệu quả th́ khó t́m. Lúc này, chúng ta nên phân tích kỹ nguyên nhân bệnh, nỗ lực điều trị một cách chính xác. Nh́n chung bệnh thường nặng vào mùa đông xuân hoặc khi khí hậu lạnh đột ngột th́ bệnh dễ phát tác hoặc tăng nặng, tuy nhiên nếu bệnh nặng hơn vào mùa nắng nóng th́ những trị pháp thông thường không dễ thu hiệu quả, lúc này nên chú ư đến khí hậu theo mùa để cân nhắc phương pháp trị bệnh, trên lâm sàng, chúng ta dùng thang Thanh thử ích khí gia Xuyên khung, Xích thược là thu được hiệu quả, điều này cho thấy phải chú ư đến ảnh hưởng rất quan trọng của khí hậu theo mùa.
Đối với việc điều trị chứng tâm giảo thống (đau thắt ngực) ngoan cố, có người dùng phương pháp tiêm thuốc hoạt huyết vào huyệt, thu được hiệu quả khá tốt. Huyệt vị thường dùng như Tâm du, Quyết âm du, Nội quan, Gian sử, Túc tam lư, thường dùng thuốc tiêm như Phục phương Đan sâm, thuốc tiêm Đan sâm, thuốc tiêm Đương quy.
Đối với tâm giảo thống nặng (đau thắt ngực nặng) có thể áp dụng phương pháp điều trị toàn diện, tức là dùng biện chứng luận trị sắc thuốc thang để uống, lại tiêm thuốc Đan sâm vào huyệt, hoặc tiêm tĩnh mạch Xuyên khung tần (ligustrazine), tái kết hợp với nhai và uống Tô hợp hương hoàn, hoặc dùng Nhân công Xạ hương hàm phiến là thuốc có hiệu quả cấp tốc dùng cho chứng đau thắt ngực, dùng khi phát bệnh hay sắp phát bệnh, có thể uống dự pḥng trước.
Đối với việc lựa chọn các phương pháp điều trị cơn đau thắt ngực nhanh chóng, phương pháp có tác dụng chữa bệnh tốt nhất thường được lựa chọn sau khi dùng thử.
Bệnh mạch vành tim tiến hành châm thích trị liệu như thế nào?
Châm cứu chữa bệnh mạch vành là một phương pháp đơn giản và hiệu quả. Có thể đạt được mục đích làm giảm cơn đau thắt ngực bằng cách điều trị các triệu chứng trong trường hợp khẩn cấp và điều chỉnh chức năng của cơ thể bằng cách điều trị nguyên nhân gốc rễ nếu nó diễn ra chậm. Liệu pháp châm cứu phù hợp với toàn bộ quá tŕnh bệnh tim mạch vành.
Chủ huyệt: Nội quan, Chiên trung, Tâm du, Quyết âm du, Thần môn
Phối huyệt: Gian sử, Khích môn, Nhũ căn, Khúc tŕ, Thái xung, Tam âm giao, Phong long, Túc tam lư
Trị pháp với mỗi ngày chọn 2 chủ huyệt, tuyển phối với 2,3 huyệt. Các huyệt chính được chọn luân phiên cách ngày. Sau khi châm cứu xong, kim được lưu lại từ 20 đến 30 phút, mười lần là một quá tŕnh điều trị, và dừng châm trong khoảng 3 ngày ở giữa, và sau đó tiếp tục đợt điều trị thứ hai.
Thủ pháp: Khi phát tác, dùng phép tả, khi không phát tác th́ dùng phép b́nh bổ b́nh tả, thân thể hư nhược, khí hư dùng phép bổ. Thông thường sau hai liệu tŕnh vi tuần hoàn của bn cải thiện rơ rệt, công năng tim được nâng cao, niêm độ của máu hạ thấp, với những bn thân thể hư nhược, thể lực được cải thiện ở các mức độ khác nhau.
Bệnh nhân bệnh mạch vành tim đau ngực khó thở, qua điều trị thượng tiêu không đạt hiệu quả, nên dùng phương pháp ǵ để điều trị?
Bệnh nhân bệnh mạch vành tim, bất luận thuộc loại chứng h́nh nào, thường đều có chứng trạng đau ngực khó thở, có thể gọi đó là chủ chứng, lâm sàng trị liệu thường kinh qua biện chứng chọn dùng các trị pháp như hoạt huyết hoá ứ, tuyên tí thông dương, ích khí dưỡng âm. Những trị pháp này, đều lập luận theo tâm mạch, với trung tâm là điều trị thượng tiêu, nếu qua trị liệu không thu được hiệu quả, sẽ dùng trị pháp nào để điều trị bệnh? Tác giả cho rằng: Chứng trạng đau ngực khó thở tuy vị trí bệnh ở trên, là do tâm mạch ứ trở gây ra, mà thuộc khí cơ uất trệ cũng không ít, khí huyết cùng tuần hành, khí là tướng soái của huyết, cho dù huyết mạch ứ trở, cũng tất có sự tồn tại sự uất trệ của khí. Trung tiêu là trục xoay thăng giáng của khí, trục xoay không thuận lợi nên tam tiêu không thông, đau ngực khó thở tuy là chứng trạng xuất hiện ở thượng tiêu, nhưng nó cũng có liên hệ rất mật thiết của khí cơ ở trung tiêu có trơn tru thuận lợi hay không. Trung tiêu của bệnh nhân bệnh mạch vành nghẽn tắc không thông là chứng trạng thường gặp. V́ thế trung tiêu thông lợi thực sự là một phương cách quan trọng để trị liệu bệnh mạch vành tim.
Trung tiêu nghẽn tắc có nhiều loại nguyên nhân như tỳ hư không kiện vận, đàm trọc, thấp trở (ngại), thực trệ (thực phẩm đ́nh trệ), táo bón, trị liệu nên phân biệt t́nh huống, thẩm tra nguyên nhân để lập trị pháp. Thông thường có thể dùng Hoắc hương, Sa nhân, Kê nội kim, Binh lang, sao Lai bặc tử…tiến hành lập phương, lấy ư vị cay thơm hành khí nhanh chóng để tiêu đạo thông giáng. Thông giáng chính là thuận ứng với xu thế sinh lư “Lục phủ truyền hoá vật mà không tàng trữ” (六腑传化物而不藏)Lục phủ truyền hoá vật mà không giữ lại. Đại tiện thông sướng điều hoà nên dùng làm chỉ tiêu quan sát trên lâm sàng, nếu phân khô hoặc đại tiện khó khăn, cần chú ư dẫn khí xuống dưới, nếu cần th́ gia Xuyên quân (Đại hoàng) để thúc đẩy, phàm những vị thuốc hương thơm hành khí, có thể cân nhắc tuyển dụng. Nếu như thấp nhiệt gây trở ngại, rêu lưỡi vàng nhầy, có thể gia tiêu Sơn chi, Trúc nhự, Dĩ mễ, Bích ngọc tán để thanh nhiệt thấu hoá; Nếu thuộc đàm nhiệt tích tụ tắc nghẽn, có thể dùng thang Tiểu hăn hung tân khai khổ giáng; Nếu thuộc tỳ hư trướng bụng, có thể tương ngẫu với Chỉ Truật để điều chỉnh; Bệnh mạch vành tim đau ngực khó thở có thể có do tắc nghẽn ở trung tiêu, mạch của tim ứ trệ cũng có thể làm cho trung tiêu tắc nghẽn, nếu nguyên nhân bệnh ở trung tiêu, dùng phép này để điều trị căn nguyên, đó là biện pháp chính đáng; Nếu bệnh có liên quan đến trung tiêu, dùng phép này để khai thông cũng có tác dụng bổ ích, làm cho khí trung tiêu thuận lợi, thượng tiêu thông suốt, cơn đau ngực khó thở được trừ khứ. Nếu thuộc nguyên nhân khác gây ra, th́ nên thay đổi phương pháp, điều trị theo nguyên nhân th́ mới có hiệu quả.
Đông y tiến hành biện chứng luận trị như thế nào đối với chứng đau thắt ngực của bệnh mạch vành tim?
Bệnh mạch vành tim thuộc phạm vi “Đau ngực” (胸痹), cơ chế bệnh lư chủ yếu là chứng bản hư tiêu thực* Trên lâm sàng có biểu hiện tà thực là chính, như khí trệ, huyết ứ, đàm thấp, hàn ngưng trệ..., có biểu hiện bản hư là chính như thận dương không đầy đủ, khí âm cùng hư.... Có biểu hiện là hư và thực cùng xuất hiện, chỉ là thiên nhiều về một bên nào mà thôi. Trên lâm sàng thường chia thành các loại chứng h́nh sau:
1/ Loại h́nh lạnh ngưng trệ trong ngực, trong tim: Mỗi khi bị lạnh hoặc thời tiết lạnh đột ngột th́ ngực đau kịch liệt, ngực như bị vật ǵ đè nặng, thậm chí đau lan sang vai lưng, rêu lưỡi trắng nhầy, mạch huyền. Điều trị dùng phép Ôn dương tán hàn, tuyên tí khai kết. Dùng phương Qua lâu Giới bạch Quế chi thang gia giảm, thường dùng các vị thuốc như Qua lâu, Giới bạch, Quế chi, pháp Bán hạ, Trần b́, Chỉ thực Can khương...Chất lưỡi tím tối có thể gia Đan sâm, Uất kim, Xích thược để hoạt huyết hoá ứ.
2/ Loại h́nh đàm thấp trung trở (Đàm thấp trở ngại trung tiêu): Biểu hiện lâm sàng là ngực đau khó thở, bụng trướng đầy, tứ chi nặng nề, miệng nhạt vô vị, rêu lưỡi trắng dày và nhầy, mạch huyền hoạt, điều trị nên khứ đàm hoá thấp, hành khí kiện tỳ. Dùng phương B́nh vị tán hợp Ôn đảm thang gia giảm, thành phần gồm các vị thuốc như Thương truật, Hậu phác, Bán hạ, Phục linh, Xương bồ, Chỉ thực, Sa nhân, Bạch truật, có thể gia thêm các vị thuốc hoạt huyết như Đan sâm, Xích thược, Tam thất có lợi cho tâm mạch tuần hành.
3/ Loại h́nh tâm mạch ứ trệ: Xuất hiện đau ngực, đau như dùi đâm, cố định không di động, kèm theo phiền muộn hơi thở ngắn, ngực sườn trướng đầy khó chịu, chất lưỡi tím tối hoặc có ứ ban, mạch huyền sáp. Điều trị nên hoạt huyết hoá ứ, hành khí giảm đau. Dùng phương Huyết phủ trục ứ thang hợp Đan sâm ẩm gia giảm, các vị thuốc như Đương quy, Xuyên khung, Xích thược, Đan sâm, Đào nhân, Hồng hoa, Đàn hương, Giáng hương, Tam thất, Chỉ xác, Hậu phác, Qua lâu, Cát cánh, Ngưu tất...
4/ Loại h́nh thận dương hư suy: Đau ở vùng ngực trái trước tim, hoảng hốt hồi hộp, tinh thần mỏi mệt, sợ lạnh tay chân lạnh, eo gối đau mỏi, nước tiểu trong và nhiều, mạch trầm tŕ vô lực, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng. Điều trị dùng Ôn dương bổ thận, với phương Kim quỹ thận khí hoàn hoặc Hữu quy ẩm gia giảm, thường dùng thục Phụ phiến, Nhục quế, Thục địa, Sơn dược, Sơn thù du, Tiên mao, Kỷ tử, Thố ti tử, Lộc giác giao, Đương quy. Loại h́nh này thường gặp ở bệnh nhân bệnh lâu ngày, Đông y có thuyết “Cửu bệnh tất hư”, “Cửu bệnh tất ứ” “久病必虚”“久病必 瘀” Bệnh lâu ngày tất sẽ hư tổn, bệnh lâu ngày tất ứ trệ, v́ thế đồng thời với ôn dương bổ thận, có thể gia thêm các vị thuốc hoạt huyết hoá ứ thích đáng như Xuyên khung, Hồng hoa, Tam thất, Ích mẫu thảo...
5/ Loại h́nh khí âm lưỡng hư: Chứng trạng chủ yếu gồm đau tim đau ngực, lúc đau lúc không, hoảng hốt thở ngắn, tự hăn yếu sức, ngũ tâm phiền nóng, hay mơ hay sợ, lưỡi hồng, rêu lưỡi mỏng ít tân dịch, mạch trầm huyền tế hoặc kết đại. Trị pháp: Ích khí dưỡng âm, dùng thang Chích Cam thảo, Sinh mạch ẩm gia giảm để trị liệu. Thường dùng Sinh địa, Mạch đông, Đảng sâm, Chích Cam thảo, Ngũ vị tử, Ngọc trúc, Uất kim, A giao, Đan sâm, Quế chi. Tâm phiền mất ngủ gia Táo nhân, Viễn chí dưỡng tâm an thần, đầu vựng ù tai gia Trân châu mẫu, Câu đằng để thanh can tiềm dương.
6/ Loại h́nh dương khí dục (muốn) thoát: Loại h́nh này là loại h́nh hư chứng nghiêm trọng. Mặt bệnh nhân có sắc trắng như tro bếp, đau tim, hơi thở ngắn, bồn chồn bất an, tứ chi lạnh giá, đổ nhiều mồ hôi; Trường hợp nặng th́ thần trí không tốt, chất lưỡi nhạt thân lưỡi to, rêu lưỡi trắng mạch trầm tŕ, trầm tế hoặc tế sáp kết đại. Dùng phương Sâm phụ long mẫu thang, Sinh mạch tán gia giảm. Dùng các vị thuốc như Nhân sâm, Thục Phụ tử, Mạch đông, Ngũ vị tử, Nhục quế, Can khương, Mẫu lệ nung, chích Cam thảo…
Đông y điều trị nhồi máu cơ tim cấp tính như thế nào?
Nhồi máu cơ tim cấp tính là một loại bệnh chứng nguy cấp, bệnh cơ chủ yếu là tâm mạch bị ứ trở, tâm khí suy bại, là chứng bản hư tiêu thực. Bản hư chủ yếu là tâm khí hư, tâm khí hư thêm một bậc là phát triển thành tâm dương hư, nếu bệnh nghiêm trọng th́ xuất hiện dương thoát hoặc vong dương, thậm chí âm dương đều suy kiệt. Cũng có khi xuất hiện khí và âm cùng hư tổn. Tiêu thực chủ yếu là huyết ứ, có thể kèm theo hàn ngưng, đàm trở, khí trệ, khí hư huyết ứ là bệnh lư cơ bản của bệnh. V́ thế, Ích khí hoạt huyết chính là trị pháp chủ yếu của bệnh, sau đó tùy theo các hội chứng ở lưỡi và mạch của các giai đoạn phát triển t́nh trạng bệnh khác nhau mà đưa ra các phương pháp điều trị khác nhau. Nh́n chung trong t́nh huống thông thường, Đông y điều trị nhồi máu cơ tim cấp theo ba giai đoạn.
1/ Giai đoạn khí hư huyết ứ: Thường trong ṿng 5 ngày kể từ khi khởi phát, cũng có những người đă chuyển sang giai đoạn hai từ 24 giờ sau khi khởi phát. Các triệu chứng bao gồm tức ngực, khó thở, đau ngực xuyên thấu sau lưng, đau như gai đâm vào lưng, cố định và không di động, tự ra mồ hôi, chân tay lạnh, mệt mỏi và ngại nói, điều trị dùng pp Ích khí hoạt huyết, dùng thang Thánh dũ hợp Đào hồng Tứ vật gồm Đảng sâm, Hoàng kỳ, Đương quy, Xích thược, Mạch đông, Ngũ vị tử, Xuyên khung, Tam thất…
2/ Giai đoạn đàm thấp trung trở (đàm thấp gây trở ngại trung tiêu): Thường sau khi phát bệnh khoảng 2 tuần. có các triệu chứng như đau ngực, khó chịu, trướng bụng, miệng nhờn, chán ăn, tứ chi mỏi mệt, phân lỏng, mạch huyền hoạt hoặc nhu hoạt, rêu lưỡi từ trắng nhầy chuyển thành nhầy và dầy lên, sau 1 tuần rêu lưỡi chuyển sang màu vàng nhầy, trị liệu chủ yếu là táo thấp khứ đàm, phương hương hoá trọc, dùng thang Ôn đảm hợp thang Qua lâu Giới bạch Bán hạ gia thêm các vị thuốc ích khí hoạt huyết. Dùng Qua lâu, Bán hạ, Trần b́, Phục linh, Chỉ thực, Trúc nhự, Hoắc hương, Sa nhân, Hoàng kỳ, Đương quy, Đan sâm, Đào nhân, Hồng hoa…
3/ Giai đoạn khí âm suy yếu: Bệnh sau 2 tuần lễ, rêu lưỡi từ dày nhờn dần chuyển trắng mỏng và sạch, một thiểu số bệnh rêu lưỡi bị lột ra hoặc không có rêu lưỡi, có các chứng trạng như ngực đau âm ỉ, phiền muộn mất ngủ, vựng đầu hồi hộp, khát thích uống, thở ngắn tự đổ mồ hôi, mệt mỏi ngại nói, mạch thường tế sác hoặc huyền tế, trị liệu dùng phép Ích khí dưỡng âm, hoạt huyết thông mạch, dùng phương Bổ trung ích khí thang hợp Sinh mạch ẩm gia giảm. Thành phần gồm Hoàng kỳ, Nhân sâm, Mạch đông, Ngũ vị, Bạch truật, Đương quy, Xích thược, Đan sâm, Uất kim…
Điều trị bệnh mạch vành tim bằng liệu pháp xoa bóp như thế nào?
Bệnh mạch vành trừ việc điều trị bằng thuốc, châm cứu th́ xoa bóp cũng là một phương cách điều trị hiệu quả, y sinh hoặc người nhà bệnh nhân thực hiện chính xác các thao tác ấn, nắn, xoa, đẩy, nắm… th́ cũng có thể đạt được hiệu quả điều trị tốt hơn. Các phương pháp xoa bóp và ấn huyệt hiệu quả trong điều trị bệnh mạch vành tim được giới thiệu như sau:
1/ Bấm huyệt Nội quan. Nội quan là huyệt hợp của Thủ quyết âm tâm bào kinh, thủ quyết âm tâm bào bắt đầu từ trong ngực, nối với tam tiêu, mà kinh mạch tuần hành bên cạnh vú, lên trên cánh tay phía trong cánh tay, đi xuống đốt cuối của ngón tay giữa. Đông y cho rằng, đường kinh tim là đường kinh căn bản, đường kinh tâm bào lạc liên hệ hỗ tương với tâm kinh, tạng tâm thụ tà th́ tâm bào cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp, nếu tạng tâm có bệnh, có thể phản ảnh ở đường kinh tâm bào lạc. Nội quan chính là hợp huyệt trọng yếu của đường kinh Thủ quyết âm tâm bào lạc, v́ thế có thể trị bệnh mạch vành của tạng tâm. Khi đau thắt ngực, tâm luật thất thường, dùng lực không ngừng ấn vào huyệt Nội quan, mỗi lần 3 phút, nghỉ 1 phút, có thể nhanh chóng giảm đau hoặc điều chỉnh nhịp tim.
2/ Huyệt Linh đạo, huyệt Linh đạo là kinh huyệt của Thủ thiếu âm tâm kinh, nằm phía trên khớp cổ tay ở mặt trong của ngón tay út 1 thốn (ám chỉ môn châm cứu toàn thân trong y học). Người ta nhận thấy rằng khoảng 91% bệnh nhân bị bệnh mạch vành tim có biểu hiện ấn đau rơ rệt ở huyệt Linh đạo bên trái. Khi bị bệnh mạch vành, có thể dùng ngón tay cái xoa nhẹ huyệt Linh đạo trong 1 phút, sau đó day ấn và xoa bóp trong 2 phút, cuối cùng xoa nhẹ trong ṿng 1 phút, mỗi ngày một lần vào buổi sáng và buổi chiều, 10 ngày như vậy là một đợt điều trị, với khoảng thời gian từ 2 đến 3 ngày. Tiến hành đợt điều trị tiếp theo. Sau khi quan sát, các triệu chứng đau thắt ngực thuyên giảm rơ rệt sau liệu pháp xoa bóp, điện tâm đồ cũng được cải thiện.
3/ Chọn huyệt Chiên trung hoặc hai bên lưng các huyệt Phế du, Tâm du, Quyết âm du của kinh bàng quang, dùng ngón tay cái ấn day (án nhu pháp), đẩy bằng cổ tay (uyển thôi pháp), dùng ngón tay ấn huyệt, mỗi lần 15 phút, mỗi ngày 1 lần, 15 lần là 1 liệu tŕnh, ngừng uống thuốc cường và các thuốc khác. Sau một đợt điều trị, 30 bệnh nhân bị bệnh mạch vành và suy thất trái được theo dơi và quan sát, kết quả là các cơn đau tức ngực, hồi hộp, khó thở, mệt mỏi và khó thở kịch phát được cải thiện ở các mức độ khác nhau.
Đông y cho rằng: Các kinh mạch của cơ thể con người được kết nối với các cơ quan bên trong và bên ngoài với các chi. Bệnh nhân bệnh mạch vành tim các huyệt vị của kinh Thủ thiếu âm tâm, thủ quyết âm tâm bào, huyệt Chiên trung ở phía trước ngực, huyệt Tâm du ở lưng đều có điểm ấn đau mẫn cảm, ấn vào các vị trí huyệt này, có tác dụng khai thông khí huyết, có hiệu quả giúp tim mạnh khoẻ và giảm đau. Đặc biệt khí ấn mạnh vào huyệt Nội quan có ư nghĩa rất lớn trong việc làm thuyên giảm t́nh trạng nguy kịch của bệnh mạch vành, cơn đau thắt ngực, rối loạn nhịp tim, nhồi máu cơ tim, hỗ trợ điều trị kịp thời cho người bệnh.
** Thể trưng, một thuật ngữ trong sinh lư học và y học, đề cập đến một sự thay đổi bất thường mà thày thuốc phát hiện ra khi kiểm tra bệnh nhân. Khác với “triệu chứng”, “triệu chứng” là những biểu hiện đau do bệnh nhân thuật lại với thày thuốc (hoặc do người khác bày tỏ), c̣n “Thể trưng” là những dấu hiệu có ư nghĩa chẩn đoán do thày thuốc phát hiện khi khám bệnh cho bệnh nhân. Chẳng hạn như các dấu hiệu sinh tồn, bao gồm nhiệt độ cơ thể, mạch, hô hấp, huyết áp, v.v.
Lương y Trường Xuân
 
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-16 19:19:14.0
Huyết hư



Tư liệu tham khảo:
Y học cổ truyền tin rằng nguyên nhân và cơ chế gây ra bệnh huyết hư là ǵ?
Theo thiển ư, trong bài này người dịch sẽ thống nhất dùng chữ Huyết hư thay v́ dùng chữ bần huyết, để thuận tiện khi dùng chữ khí hư.
Trong y học cổ truyền không có từ “Bần huyết”, nhưng từ góc độ sinh bệnh học, nó gần tương đương với loại huyết hư. Tuy nhiên, v́ y học cổ truyền và Tây y là hai hệ thống lư thuyết khác nhau nên bệnh nhân huyết hư không nhất thiết bị bần huyết. Trên lâm sàng, ngoài huyết hư, bệnh nhân huyết hư c̣n có thể mắc các bệnh theo y học cổ truyền khác.
Huyết hư trong y học cổ truyền đề cập đến hiện tượng bệnh lư là lượng máu không đủ hoặc chất lượng máu hoặc chức năng máu bất thường. Người ta thường tin rằng nguyên nhân gâyhuyết hư bao gồm tỳ vị hư nhược, chế độ ăn uống không đủ chất, mất máu quá nhiều, thận khí hư và làm việc quá sức. Cơ chế gây huyết hư do các nguyên nhân bệnh như sau:
I/ Tỳ vị hư nhược
Các chất cơ bản để tạo máu chủ yếu đến từ tinh chất của nước và ngũ cốc được chuyển hóa bởi tỳ và vị. “Nội Kinh” nói: “Trung tiêu thụ khí thủ trấp, biến hóa nhi xích, thị vị huyết” (中焦受气取汁,变化而赤,是谓血)Trung tiêu nhận khí và thu dịch, chuyển sang màu đỏ, gọi là huyết. {Chứng Trị Chuẩn Thằng} viết: “Tỳ vị giả, khí huyết chi phụ dă” (脾胃者,气血之父也) Tỳ vị là cha của khí huyết. Khi công năng của tỳ vị mạnh mẽ có thể chuyển hóa nước và tinh chất ngũ cốc vào cơ thể thành khí và huyết. Nếu ăn uống không tiết độ hoặc bị bệnh gan mật xâm phạm tỳ vị, chức năng của tỳ vị sẽ bị suy yếu, tinh chất không đủ, sinh hóa không có nguồn, lâu ngày sẽ xảy ra hiện tượng huyết hư. Huyết hư có thể gây ra rối loạn chức năng của các tạng phủ khác.
II/ Chế độ ăn uống không đầy đủ
Các cơ quan nội tạng của cơ thể con người được nuôi dưỡng bởi khí huyết và dịch cơ thể, c̣n khí huyết và dịch cơ thể được chuyển hóa bởi tinh chất của nước và ngũ cốc. Du Xương của triều đại nhà Thanh đă nói trong {Y Môn Pháp Luật}: “Ẩm thực đa tự năng sinh huyết, ẩm thực thiểu tắc huyết bất sinh”( 饮食多自能生血,饮食少则血不生)Ăn nhiều th́ có thể sinh ra máu, nếu ăn quá ít th́ không thể sinh ra máu." Chế độ ăn uống không đầy đủ, đói khát lâu ngày, không có nguồn sinh hóa khí huyết th́ chắc chắn sẽ dẫn đến huyết hư. Ngoài ra, tuy khẩu phần ăn đầy đủ nhưng khẩu vị kém, cũng sẽ thiếu nguyên liệu tạo máu, dẫn đến nguồn sinh hóa không đủ, gây ra huyết hư và các bệnh khác.
III/ Mất quá nhiều máu
Mất máu quá nhiều do chấn thương, rong kinh hoặc các hội chứng mất máu măn tính khác có thể gây ra hội chứng huyết hư. Ngoài ra, do chảy máu, lâu ngày sẽ xảy ra t́nh trạng ứ máu, tắc tĩnh mạch bên trong, một mặt sẽ gây chảy máu nhiều hơn, mặt khác cũng sẽ ảnh hưởng đến việc sản xuất máu mới, từ đó khiến t́nh trạng huyết hư nặng hơn.
IV/ Thận khí suy yếu
Thận chứa tinh, tinh sinh tủy, tinh c̣n có thể hóa máu. Nếu bẩm sinh không đủ, mắc phải suy dinh dưỡng, sắc dục quá sức sẽ gây ra thận hư, thận hư sẽ dẫn đến tinh ít, tinh yếu sẽ dẫn đến huyết hư.
V/ Làm việc quá độ
Bệnh nặng hoặc bệnh lâu ngày tiêu hao tinh khí, hoặc đổ mồ hôi, nôn mửa và chảy máu làm tổn thương dương khí và âm dịch; Lao động nặng tiêu tốn năng lượng và tổn thương khí huyết, lâu ngày sẽ dẫn đến khí huyết hư suy; Lao tâm quá mức dễ khiến âm huyết bị tiêu hao, tâm huyết hư tất cả đều có thể dẫn đến huyết hư.

Các biểu hiện lâm sàng của hội chứng huyết hư trong y học cổ truyền là ǵ?
Máu là cơ sở vật chất quan trọng cho các hoạt động sống của con người, chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, dưới tác động phối hợp khí của tâm phế, đưa máu đến các cơ quan nội tạng, đến gân xương ở bên ngoài, có tác dụng dinh dưỡng đối với các tạng phủ tổ chức của toàn thân
. Tuy nhiên, nếu khí huyết bị thiếu hụt do nhiều nguyên nhân khác nhau th́ có thể xảy ra hàng loạt các hội chứng bệnh. Có thể tóm tắt chủ yếu là hai phương diện hội chứng bệnh: Một là do các cơ quan nội tạng mất đi chất dinh dưỡng và hai là máu không có khả năng vận chuyển khí.
I/ Tạng phủ không được nuôi dưỡng
Nội tạng mất chất dinh dưỡng thường biểu hiện như da xanh xao, môi và móng tay nhợt nhạt, chóng mặt, tê chân tay, co thắt cơ và tĩnh mạch, tim đập nhanh, mất ngủ và mơ màng, da khô, tóc khô, phân khô và khó tiểu tiện. .
V́ tim điều khiển máu và gan dự trữ máu nên huyết hư trên lâm sàng chủ yếu biểu hiện ở tim và gan. Tim không đủ máu biểu hiện bằng cảm giác hồi hộp, mất ngủ, mơ màng, bồn chồn. Gan huyết không đủ sẽ dẫn đến sắc mặt không tươi, chóng mặt ù tai, khô mắt, mờ mắt hoặc mắt chim sẻ (quáng gà, dạ manh); Không nuôi dưỡng gân cốt sẽ dẫn đến tê chân tay, căng gân, co giật cơ; v́ Đông y cho rằng gan chủ gân, móng vuốt làm từ gân, can huyết không đủ, móng vuốt thiếu dinh dưỡng, trở nên mỏng và dễ găy. Theo thuyết ngũ hành của Y học cổ truyền, tâm là con của can (can mộc sinh tâm hỏa) và can là con của thận(Thận thủy sinh can mộc). Theo nguyên lư hư tắc bổ kỳ mẫu và dương sinh âm trưởng, khi điều trị bổ tâm thường kèm theo bổ can, bổ can thường kèm theo tư bổ thận. Trong t́nh huống huyết hư khá nghiêm trọng, trong phương dược bổ huyết thường gia thêm các vị bổ khí cho tỳ và phế.
II/ Khí bất tải khí
Y học cổ truyền cho rằng huyết là mẹ của khí, khí dựa vào máu để gắn kết và máu mang theo khí để di chuyển. Huyết hư nên khí không thể dựa vào, nên thành hư chứng,
, do đó, huyết hư thường đi kèm với khí hư, người bệnh không chỉ có triệu chứng huyết hư mà c̣n có các triệu chứng khí hư như thiếu năng lượng, ngại nói chuyện, tiếng nói thấp nhỏ, mệt mỏi yếu sức, thở ngắn tự đổ mồ hôi. Trên lâm sàng thường gặp chứng huyết hư dẫn đến khí hư ở các bệnh xuất huyết mạn tính. Đặc biệt là trong t́nh huống xuất huyết quá nhiều, khí cũng bị mất theo lượng máu đă mất (gọi là khí tùy huyết thoát), lúc này khí hư thoát lại trở thành mâu thuẫn chủ yếu. Nếu khí hăm xuống dưới, sẽ xuất hiện hơi ngắn không đủ để thở, hoặc khi nỗ lực để hô hấp th́ tựa như bị suyễn, hoặc hơi thở sẽ ngừng lại, nguy hiểm ở ngay lúc này.

Các phương pháp y học cổ truyền trong điều trị hội chứng huyết hư là ǵ?
Các nguyên tắc và phương pháp điều trị huyết hư trong y học cổ truyền bao gồm kiện tỳ ḥa vị, ích khí sinh huyết, bổ thận sinh huyết, khứ ứ sinh huyết và giải độc sinh huyết.
I/ Kiện tỳ ḥa vị
Tỳ vị là nguồn sinh hóa của huyết dịch. Ăn uống tiết độ, công năng vận hóa của tỳ vị b́nh thường th́ việc sinh thành huyết dịch tự nhiên sẽ liên tục không ngừng. V́ thế, bổ huyết trước hết phải kiện tỳ vị, tỳ vị khỏe mạnh th́ nguồn sinh hóa không bao giờ hết. Phương dược thường dùng có: Thang Tứ quân tử, thang Tứ vật, thang Đương quy bổ huyết.

II/ Ích khí sinh huyết
Cơ sở vật chất của huyết dịch là tinh, và để thúc đẩy quá tŕnh chuyển hóa tinh thành huyết, th́ khí chính là động lực. Lư Trung Tử của nhà Thanh đă nói trong {Y Tôn tất độc} : “Khí huyết câu yếu, nhi bổ khí tại bổ huyết chi tiên; Âm dương tính nhu, nhi dưỡng dương tại tư âm chi thượng” (血气俱要,而补气在补血之先;阴阳并需,而养阳在滋阴之上。)Cần cả khí và huyết, bổ khí trước khi bổ máu; cần cả âm và dương, dưỡng dương cao hơn nuôi âm. {Ôn Bệnh Điều Biện} viết: “Thiện trị huyết giả, bất cầu chi hữu h́nh chi huyết, nhi cầu chi vô h́nh chi khí” (善治血者,不求之有形之血,而求之无形之气。) Người giỏi trị huyết, không cầu huyết hữu h́nh, mà cầu khí vô h́nh. {Cảnh Nhạc Toàn Thư} viết: “Hữu h́nh chi huyết nan dĩ tốc sinh, vô h́nh chi khí sở đương cấp cố” (有形之血难以速生,无形之气所当急固。)Máu hữu h́nh khó sản sinh nhanh chóng, khí vô h́nh cần cấp bách củng cố. Khi dụng thuốc trên lâm sàng, nó dựa trên lư thuyết “Khí năng sinh huyết.” (气能生血), Khí có thể sinh huyết, thường trong thuốc bổ huyết thường phối với các vị thuốc ích khí. Các phương thang thường dùng như thang Quy tỳ, thang Đương quy bổ huyết. Các vị thuốc bổ khí thường dùng như Hoàng kỳ, Nhân sâm, Đảng sâm, Bạch truật, Hoàng tinh, Sơn dược, Đại táo; Phối với các vị thuốc bổ máu như: Đương quy, Bạch thược, A giao, Thục địa.
(3) Bổ thận sinh huyết.
Thận là căn bản của bẩm sinh và là nơi tàng (chứa đựng) tinh. Tinh bao gồm cả tinh bẩm sinh và tinh thu được của hậu thiên tạng phủ (từ tạng phủ từ sau khi ra đời). Tinh có thể sinh tủy, tủy có thể hóa huyết. Đồng thời Mệnh Môn trong thận là gốc khí, là gốc của mười hai kinh, là nguồn sinh hóa, cũng là động lực làm ấm và thúc đẩy sinh hóa huyết dịch. V́ vậy, y học cổ truyền có câu “Sinh huyết căn bản tại vu thận” (生血根本在于肾) căn bản của sinh ra huyết là ở thận. Trên lâm sàng, muốn trị huyết hư cần phải dưỡng thận bổ sung tinh, tinh tủy đủ th́ máu sẽ tự nhiên hưng thịnh. Các đơn thuốc thường được sử dụng bao gồm Thố ti tử ẩm, Nhị tiên đan. Thường dùng các vị thuốc bổ thận như Lộc nhung, Lộc giác giao, A giao, Quy bản giao, Ba kích thiên, Tỏa dương, Dâm dương hoắc, Bổ cốt chỉ, Thố ti tử, Phụ tử, Nhục quế, Thủ ô, Thục địa, Cẩu kỷ tử, Tử hà xa...
IV/ Khứ ứ sinh huyết
Bất kể doanh huyết được chuyển hóa bởi tỳ vị, hay được chuyển hóa bởi tinh tủy, doanh huyết đều phải được giải phóng và thông qua qua kinh mạch và các tủy đạo, lưu thông khắp cơ thể. Tinh tủy chuyển hóa thành máu, được bẩm thụ tử tiên thiên (bẩm sinh) và được nuôi dưỡng ở hậu thiên, Tinh của nước, ngũ cốc và tinh của ngũ tạng cũng được các kinh mạch vận chuyển, hội tụ ở mạch Xung --- c̣n gọi là huyết hải, tương hội với đại lạc của thận để nuôi thận, nuôi dưỡng xương tủy. Nếu khí huyết tắc nghẽn, mạch đạo không thông, tủy xương sẽ bị suy kiệt do thiếu dinh dưỡng, khiến quá tŕnh sinh hóa huyết dịch kém hiệu quả. Các phương thuốc thường được sử dụng bao gồm thang Tứ vật đào hồng, thang Bổ dương hoàn ngũ, thang Huyết phủ trục ứ...Các vị thuốc hoạt huyết hóa ứ thường dùng: Đương quy, Xuyên khung, Đan sâm, Tam thất, Đan b́, Hương phụ...
V/ Giải độc sinh huyết
Y học cổ truyền cho rằng, bất kể nội thương do thất t́nh (7 cảm xúc) hay sáu yếu tố (lục nhân) bên ngoài gây ra, ưu uất lâu ngày đều có thể hóa hỏa, khí của hỏa nhiệt có khả năng tiêu hao huyết và tổn hại chân âm nhiều nhất. Hơn nữa, các chất độc hóa học, vật lư, sinh học có thể xâm nhập vào gan thận, trực tiếp gây ra t́nh trạng thiếu hụt tinh tủy, dẫn đến không có nguồn hóa sinh huyết dịch. Chất độc bế hăm bên trong hoặc thất t́nh uất hỏa (cửu uất hóa hỏa) có thể làm tắc nghẽn kinh mạch, h́nh thành huyết ứ, dẫn đến không thể tạo ra huyết mới, do đó cần phải thanh nhiệt và giải độc. Các phương dược thường dùng bao gồm thang Tê giác địa hoàng, thang Tam hoàng thạch cao, thang Nhân trần hao, Ngũ vị tiêu độc ẩm, thang Thanh doanh, Thanh ôn bại độc ẩm. Các vị thuốc thanh nhiệt giải độc thường dùng:, Bồ công anh, Ngân hoa, Liên kiều, Bạch hoa xà thiệt thảo, Bản lam căn, Đại thanh diệp, Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng bá, Tử hoa địa đinh, Đại hoàng, Tử thảo, Nhân trần, Bán chi liên...
Trên lâm sàng thường dùng cho bệnh Tái sinh chướng ngại tính bần huyết cấp tính, Bệnh bạch huyết cấp tính, bệnh Thiếu máu do tan máu...

Bệnh nhân huyết hư có thể tập những bài tập khí công nào?
Khí công là một phương pháp tự tập luyện độc đáo và là hoạt động thể dục kết hợp điều trị y tế. Nó có thể phát huy tiềm năng của cơ thể con người, điều ḥa cơ thể, tâm trí và hơi thở, rèn luyện tinh hoa, năng lượng và tinh thần của con người, trau dồi và nâng cao năng lượng thực sự, điều chỉnh các chức năng bên trong của cơ thể, tăng cường thể lực, nâng cao sức đề kháng bệnh tật, từ đó đạt được mục tiêu chữa bệnh và bồi bổ cơ thể. Hiện nay, cả phương pháp điều trị bằng thuốc của y học cổ truyền và phương Tây đều là phương pháp điều trị thụ động, dựa vào thuốc để phát huy tác dụng chữa bệnh, trong khi khí công là phương pháp trị liệu tích cực dựa vào sự chủ động chủ quan và sức mạnh của chính con người để điều chỉnh và nâng cao chức năng sinh lư của chính ḿnh. Luyện khí công không có tác dụng phụ, tiết kiệm và có thể tập bất cứ lúc nào.
Đối với bệnh huyết hư do thiếu sắt, huyết hư hồng cầu cự ấu tế bào huyết hư bất sản, bạn có thể sử dụng các bài tập bồi dưỡng bên trong, bài tập tăng cường sức khỏe, bài tập chăm sóc sức khỏe và bài tập đi bộ do Lưu Quư Trân sáng tạo, cũng như Thái Cực Quyền đơn giản hóa.
I/ Huyết hư thiếu sắt và huyết hư hồng cầu cự ấu dinh dưỡng
Phương pháp chính: Nội dưỡng công, phương pháp thở thứ nhất, có thể sử dụng cả ngồi và nằm, tập trung vào việc hộ tŕ đan điền.
Bài tập phối hợp: Trường tráng công, tư thế hoa sen tự nhiên. Hăy thở tự nhiên và ư thủ Đan Điền. Đơn giản hóa Thái Cực Quyền hoặc các bài tập đi bộ.
II/ Huyết hư bất sản
Các bài tập chính: Trường tráng công, sử dụng cả ngồi và đứng, ư thủ đan điền. Chọn hoặc thêm hoặc bớt các bài tập tùy theo t́nh trạng bệnh.
Các bài tập phối hợp: Bảo kiện công (保健功) và Thái Cực Quyền đơn giản (简化太极拳).
Về nguyên tắc, những người mắc các loại bệnh huyết hư khác cũng có thể tập các bài tập khí công có tác dụng bảo vệ sức khỏe, bạn có thể tham khảo các sách khí công liên quan hoặc tham khảo ư kiến của các thầy khí công.

Một số bài thuốc đơn giản của y học cổ truyền để bổ máu là ǵ?
① Tang thầm 50g, Cẩu kỷ 20g. Sắc uống.
② Hoàng kỳ 50g, táo tàu 10 quả, Đương quy 9g, Kỷ tử 9g. Sắc uống.
③ Nhân sâm 6g, táo tàu 10 trái, sắc lấy nước uống. Trị huyết hư do mất máu, suy nhược, suy nhược cơ thể do xuất huyết nhiều.
④ Thục địa hoàng 12g, Đương quy 10g, Bạch thược 10g, Xuyên khung 6g. Sắc uống.
⑤ Sinh địa 30g, Mạch đông 12g, Kỷ tử 12g, sắc canh trước, sau đó nấu tiết canh gà vịt, thêm gia vị. Dành cho bệnh nhân huyết hư thiếu sắt và huyết hư loại h́nh âm hư.
⑥ Hoàng kỳ 30g, Đương quy12g, sắc lấy nước và uống. Nó được sử dụng cho bệnh huyết hư do thiếu cả khí và huyết.

Các loại thành dược để điều trị bệnh huyết hư :
① Thuốc Bát trân: Gồm nhân sâm, bạch truật, Phục linh, Cam thảo, Địa hoàng, Đương quy, Bạch thược và Xuyên khung, có tác dụng bổ khí và huyết, có thể điều trị chứng huyết hư do chấn thương chảy máu, xuất huyết tiêu hóa, xuất huyết tử cung chức năng ở phụ nữ,… Đặc biệt thích hợp với những người có các triệu chứng khí huyết hư yếu như cơ thể gầy g̣, nước da nhợt nhạt, chán ăn, mệt mỏi, thường xuyên khó thở, v.v. dùng thuốc trong một thời gian dài và thường có thể đạt được kết quả tốt.
② Nhân sâm dưỡng vinh hoàn: Thành phần gồm Nhân sâm,
Hoàng kỳ, Bạch truật, Phục linh, Cam thảo, Thục địa, Đương quy, Bạch thược, Nhục quế, Trần b́, Ngũ vị, Viễn chí, Sinh khương, Đại táo, có tác dụng bổ ích khí huyết an thần định chí. Thích hợp với chứng huyết hư kèm theo mất ngủ.
③Thang Quy tỳ: gồm Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Phục linh, Cam thảo, Đương quy, Long nhăn nhục (quế viên nhục), Toan táo nhân, Viễn chí, Mộc hương, Sinh khương, Đại táo, có tác dụng bổ tỳ dưỡng tâm, ích khí sinh huyết, thích hợp cho người bệnh huyết hư, ăn uống kém, hồi hộp.
④ Thất bảo mỹ nhiêm đan: Thành phần gồm: Hà thủ ô, Phục linh, Ngưu tất, Kỷ tử, Đương quy, Thố ti, Bổ cốt chỉ, có tác dụng bồi bổ can thận, bổ huyết đen tóc, thích hợp với chứng bần huyết loại h́nh can thận âm hư.
⑤Quy lộc nhị tiên giao: Gồm các thành phần: Quy bản, Lộc giác, Nhân sâm, Kỷ tử, có tác dụng dưỡng âm bổ tinh, ích thận tráng dương thận cường dương, thích hợp với chứng bần huyết loại h́nh thận tinh hư tổn.
⑥Hà xa đại tạo hoàn: Thành phần gồm Tử hà xa, Thục địa, Đỗ trọng, Thiên đông, Mạch đông, Quy bản, Hoàng bá, Ngưu tất, có tác dụng bổ thận thêm tinh, dưỡng âm và tả hỏa. thích hợp cho những người bị huyết hư thuộc âm hư, nội nhiệt.
Chú thích về khí huyết
* Theo y học cổ truyền Trung Quốc, “Huyết vi khí mẫu” (血为气母) có hai nghĩa: Một là Khí tồn tại trong huyết và lưu thông huyết, tức là huyết mang (tải) Khí; Hai là sự chuyển hóa. Khí dùng huyết làm cơ sở vật chất. Khí có thể vận chuyển huyết, huyết có thể vận chuyển khí và khí tồn tại trong huyết. Như {Nội Kinh} viết: “Doanh hành mạch trung” (营行脉中), “doanh” này ám chỉ doanh khí, doanh khí là Khí tồn tại trong huyết. Vệ khí tuy chạy ngoài mạch nhưng cũng cần dịch cơ thể để vận chuyển. “Nội Kinh” viết: “Thượng tiêu khai phát, tuyên ngũ cốc vị, huân phu, sung thân, trạch mao, nhược vụ lộ chi khái, thị vị khí.” (上焦开发,宣五谷味,熏肤、充身、泽毛,若雾露之溉,是谓气。) Thượng tiêu khai phát lan tỏa vị ngũ cốc, thấm vào da thịt, sung túc thân thể, mượt lông tóc, như tưới tắm của sương sa, gọi là khí. {Huyết Chứng Luận} viết: “Thủ khí giả tức thị huyết” (守气者即是血), Giữ ǵn khí chính là huyết, Ư tứ chính là khí không thể li khai huyết mà tồn tại. Nếu khí không dựa vào huyết th́ sẽ trôi nổi như không có gốc rễ, khí tồn tại trong huyết, đồng thời huyết vận chuyển khí, huyết không ngừng cung cấp cơ sở vật chất cho công năng hoạt động của khí, cho phép khí được bổ sung liên tục, v́ thế khí không thể tách rời huyết và tân dịch mà tồn tại được.
Tóm lại, quan hệ của khí và huyết là khí có thể sinh huyết, khí có thể vận hành huyết, khí có thể giữ (thống nhiếp) huyết, huyết là mẹ khí.
Ly Trương Xuân dịch
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-18 02:13:49.0
Thiếu máu tán huyết
Thiếu máu tán huyết là t́nh trạng thiếu máu do hồng cầu bị phá hủy nhanh vượt quá khả năng bù đắp của hồng cầu tủy xương, là thuật ngữ chung cho một nhóm bệnh lớn. Tuổi thọ của các tế bào hồng cầu b́nh thường trong tuần hoàn máu là khoảng 120 ngày, các tế bào hồng cầu già cỗi liên tục bị phá hủy và đào thải, các tế bào hồng cầu mới liên tục được tạo ra và giải phóng bởi tủy xương để duy tŕ động thái cân bằng. Trong bệnh thiếu máu tán huyết, thời gian tồn tại của hồng cầu bị rút ngắn với mức độ khác nhau, ngắn nhất chỉ vài ngày. Khi các nguyên nhân khác nhau dẫn đến tuổi thọ của hồng cầu bị rút ngắn, sự phá hủy quá mức và tăng khả năng tán huyết, nếu chức năng tạo máu ban đầu của tủy xương là b́nh thường, th́ chức năng tạo máu bù của tủy xương có thể tăng lên gấp 6~8 lần so với b́nh thường, và thiếu máu có thể không xảy ra. T́nh trạng này được gọi là “Đại thường tính dung huyết bệnh” (代偿性溶血病) bệnh tan máu bù. Nếu tốc độ tạo máu bù của tủy xương không thể phù hợp với tốc độ tan máu th́ sẽ xuất hiện t́nh trạng thiếu máu.
Tuổi thọ của hồng cầu bị rút ngắn, sự hủy hoại quá mức và nhanh chóng được gọi là tan máu.
Tán huyết có thể được chia thành hai loại lớn.
Tủy xương có khả năng tạo máu bù trừ mạnh, thiếu máu chỉ xảy ra khi mức độ tan máu vượt quá chức năng bù trừ của quá tŕnh tạo máu của tủy xương. Sau khi tán huyết, lượng bilirubin do huyết sắc tố phân hủy sinh ra tăng lên, không thải ra kịp thời có thể xuất hiện vàng da, gọi là vàng da tán huyết. Bệnh nhân thường bị lách to, và huyết sắc tố niệu giống như nước tương có thể xảy ra. Chẩn đoán thiếu máu tan máu ngoài các xét nghiệm máu thông thường, thường cần phải lấy máu để làm các xét nghiệm tan máu đặc biệt khác nhau để xác nhận xem có tan máu hay không và nguyên nhân gây tan máu.
Để xử lư căn bệnh này, việc pḥng ngừa và điều trị nguyên nhân là quan trọng nhất, chẳng hạn như tan máu do hóa chất và thuốc bào chế đậu tàm, và phải tránh tiếp xúc lại với các chất này.
Bệnh thiếu máu tan máu tự miễn dịch và bệnh tan máu ở trẻ sơ sinh có thể được điều trị bằng Cường đích tùng ( prednisone). Khi xuất hiện chứng huyết sắc tố kịch phát về đêm, truyền tĩnh mạch anhydrit dexarginic có thể ức chế tán huyết, và y học cổ truyền, androgen và prednisone cũng có tác dụng chữa bệnh nhất định. Mặc dù phẫu thuật cắt lách đối với bệnh hồng cầu h́nh cầu di truyền không thể thay đổi các khiếm khuyết của hồng cầu, nhưng nó có thể làm giảm bớt các triệu chứng tan máu và ngăn ngừa các bệnh đi kèm. Cắt lách chữa cường lách có tác dụng chữa bệnh tốt.

Tư liệu tham khảo:
Trên lâm sàng c̣n có một số bệnh và t́nh trạng thiếu máu khác làm rút ngắn đời sống hồng cầu như viêm măn tính, nhiễm trùng, ung thư di căn rộng, bệnh bạch cầu, u lympho ác tính, suy thận, bệnh gan, viêm khớp dạng thấp, thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ, các chứng trạng thiếu máu này cần được phân biệt. Nguyên nhân gây thiếu máu ở các bệnh này không phải do tan máu, không phải do hồng cầu bị phá hủy quá nhanh mà do quá tŕnh sản xuất hồng cầu bị chậm lại, tuổi thọ của hồng cầu bị rút ngắn nhưng không nhiều như trong bệnh huyết hư do tan máu.

Biểu hiện lâm sàng của bệnh thiếu máu tán huyết là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của thiếu máu huyết tán có liên quan đến mức độ khẩn cấp, mức độ và vị trí của tan máu, v́ vậy các triệu chứng và dấu hiệu của tan máu cấp tính và tan máu măn tính là khác nhau.
Tán huyết cấp tính: Khởi phát nhanh, ớn lạnh đột ngột, sốt cao, đau thắt lưng, khó thở, mệt mỏi, khó chịu, buồn nôn, nôn, đau bụng và các triệu chứng tiêu hóa khác. Trong trường hợp lượng lớn tán huyết nội mạch có thể nh́n thấy huyết sắc tố trong nước tiểu, màu nước tiểu giống như trà đen đậm đặc hoặc nước tương, ngoài ra c̣n có thể xuất hiện vàng da nhẹ. Nếu phản ứng tán huyết do truyền máu không đúng cách có thể thấy ít nước tiểu, không có nước tiểu và suy thận cấp. V́ thiếu máu cấp tính dẫn đến thiếu dưỡng khí nghiêm trọng nên có thể thấy tinh thần bệnh nhân thờ ơ, hời hợt hoặc hôn mê, sốc và suy tim.
Tan máu mạn tính: khởi phát chậm, các triệu chứng lâm sàng và dấu hiệu thiếu máu mạn tính như mệt mỏi, xanh xao, khó thở, chóng mặt…, cũng có thể gặp ở các mức độ vàng da khác nhau. Phổ biến hơn với gan lách to. Biến chứng phổ biến hơn là sỏi mật chứa sắc tố mật, có thể là thứ phát sau tắc nghẽn ống mật chủ và vàng da tắc mật. Trong bệnh thiếu máu hồng cầu h́nh liềm, loét da ở mắt cá chân của các chi dưới là phổ biến và khó chữa lành. Các triệu chứng thiếu máu di truyền có thể đến và đi theo thời gian do những thay đổi trong t́nh trạng bệnh.
Tan máu mạn tính: Khởi phát chậm, có thể thấy rơ trên lâm sàng các triệu chứng và dấu hiệu thiếu máu mạn tính như mệt mỏi, xanh xao, khó thở, chóng mặt, vàng da ở các mức độ khác nhau. Phổ biến hơn với gan lách to. Biến chứng phổ biến hơn là sỏi mật chứa sắc tố mật, có thể là thứ phát sau tắc nghẽn ống mật chủ và vàng da tắc mật. Trong bệnh thiếu máu hồng cầu h́nh liềm, loét da ở mắt cá chân của các chi dưới là phổ biến và khó chữa lành. Các triệu chứng thiếu máu di truyền có thể đến và đi theo thời gian do những thay đổi trong t́nh trạng bệnh.
Y học cổ truyền hiểu như thế nào về chứng tan máu do bất thường bẩm sinh của màng tế bào hồng cầu?
V́ bệnh tan máu do bất thường bẩm sinh của màng hồng cầu có biểu hiện lâm sàng là thiếu máu, suy nhược, vàng da, gan lách to và chủ yếu xảy ra ở trẻ em, v́ thế bệnh này thuộc phạm trù “Hư lao”, “Cam chứng” “ Đồng tử lao”, “Hoàng đản” và “Tích tụ”.
Trong {Ấu ấu tập thành} viết thời nhà Thanh có ghi: “Phu cam chi vi bệnh giả, diệc tiểu nhi ác hậu, thập lục tuế dĩ tiền bệnh vi cam, thập lục dĩ thượng, kỳ bệnh vi lao” Chứng cam gây bệnh, là hội chứng xấu ở trẻ, trước 16 tuổi gọi là bệnh cam, 16 tuổi trở lên là lao là khó nhọc vất vả. Những ghi chép tương tự về triệu chứng thiếu máu và suy nhược của bệnh này có thể được t́m thấy trong sách y học cổ đại. Như trong {Y Lâm Thằng Mặc}: “Yêu toan cước nhuyễn, hoặc hung muộn khí đoản, tâm phiền bất an, hoặc nhĩ minh mục huyễn ……hoặc thực thiểu vô vị, bất tác cơ phu, thuỵ trung kinh quư, ngọ hậu phát nhiệt, hoặc đăi quyện vô lực, tứ chi bất thu, hoặc hư hoả thượng công, diện xích suyễn cấp, thử giai hư tổn chi chứng” (腰酸脚软,或胸闷气短,心烦不安,或耳鸣目眩……或食少无味,不作肌肤,睡中惊悸,午后发热,或怠倦无力,四肢不收,或虚火上攻,面 赤喘急,此皆虚损之证。) Lưng đau chân mỏi, hoặc ngực bế tắc thở ngắn, tâm phiền muộn bất an, ù tai hoa mắt.... ăn không biết ngon, không có cơ bắp, , mê sảng sợ hăi khi ngủ, phát sốt sau trưa, hoặc mỏi mệt yếu sức, tứ chi yếu nhược, hoặc hư hoả bốc lên, mặt đỏ suyễn cấp, đều là các chứng hư tổn. Nguyên nhân khởi phát những bệnh chứng này, {Ấu ấu tập thành} cho rằng “Giai chân nguyên khiếp nhược, khí huyết hư suy chi sở chí dă” (皆真元怯弱,气血虚衰之所致也”) Đều do chân nguyên khiếp nhược, khí huyết hư suy gây ra bệnh. {Thọ Thế Bảo Nguyên} viết: “Phu cam giả, cam ph́ vô tiết, nhũ thực bất điều, hoặc bẩm phú khiếp nhược, khí huyết bất túc”( 夫疳者,甘肥无节,乳食不调,或 禀赋怯弱,气血不足) Bệnh cam tích, ăn uống ngọt béo không tiết độ, sữa và thực phẩm không điều độ, hoặc tố chất bẩm sinh kém, khí huyết không đầy đủ mà thành bệnh. Điều này cho thấy nguyên nhân của bệnh không chỉ do nhân tố bẩm sinh yếu nhược mà c̣n có các nhân tố khác như tỳ vị hư nhược và khí huyết không đầy đủ, nhưng nhân tố bẩm sinh quan trọng hơn. {Loại chứng trị tài} viêt: “Tiểu nhi chi lao đắc vu mẫu thai” (小儿之劳得于母胎) Bệnh của thai nhi thụ nhận từ thai mẹ, thêm nữa “Hư lao tắc do tiên thiên bẩm thụ bất túc, nhi bẩm vu mẫu khí vưu đa, cố nhất ban xưng vi đồng tử lao.” (虚劳则由先天禀受不足,而禀于母气尤多,故一般称为童子劳。)Hư lao là do bẩm thụ không đầy đủ, mà nhất là bẩm thụ từ tinh khí của mẹ, v́ thế nên chứng này c̣n được gọi là đồng tử lao. Loại bệnh này chính là do nhân tố di truyền mà gây bệnh.
Bệnh chứng vàng da có liên quan với đặc điểm sinh lư của ấu nhi. Đông y cho rằng, trẻ em thuộc thể trĩ âm trĩ dương (âm dương non trẻ chưa hoàn thiện), công năng tạng phủ chưa kiện toàn, thường có biểu hiện là “Thận khí bất túc” (肾气不足)thận khí không đầy đủ, “Tỳ thường hư” (脾常虚) tạng tỳ hư yếu. Công năng hai tạng tỳ thận không kiện toàn th́ có thể dẫn đến chứng vàng da. Trong {Ấu ấu tập thành} luận về nguyên nhân vàng da ở trẻ viết: “Thấp nhiệt phát hoàng giả thiểu, tỳ hư phát hoàng giả đa. Cái tỳ thổ cường giả túc dĩ cản ngự thấp nhiệ, tất bất sinh hoàng. Duy kỳ tỳ hư bất vận, sở dĩ thấp nhiệt thừa chi” (湿热发黄者少,脾虚发黄者多。盖脾土强者足以捍御湿热,必不生黄。唯其脾虚不运,所以湿热乘之。). Thấp nhiệt gây bệnh vàng da th́ ít, phần lớn bệnh vàng da là do tỳ hư. Tỳ thổ mạnh mẽ đủ để ngăn cản thấp nhiệt gây bệnh vàng da. Chỉ khi tạng tỳ hư yếu không vận chuyển mạnh mẽ, v́ thế thấp nhiệt thừa thế gây bệnh (vàng da).
Bệnh chứng can tỳ sưng lớn cũng liên quan với công năng tỳ thận không kiện toàn ở trẻ. {Cảnh Nhạc toàn thư}viết: “Phàm tỳ thận bất túc cập hư nhược bất điều chi nhân, đa hữu tích tụ chi bệnh.” (凡脾肾不足及虚弱失调之人,多有积聚之病。) Phàm người công năng tỳ thận không đầy đủ và là người hư yếu không điều độ th́ thường có bệnh về tích tụ {Ấu ấu tập thành} th́ viết, trẻ em “Tỳ vị bất thắng, nhũ bô thất điều, tam tiêu bất vận, thuỷ ẩm đ́nh trệ, lănh khí bác chi, kết tụ nhi tích dă” Tỳ vị không mạnh mẽ, bú sữa không điều độ, tam tiêu không kiện vận, thuỷ ẩm đ́nh trệ, khí lạnh xâm phạm, kết tụ mà thành bệnh. Tích tụ là chỉ về thũng khối hữu h́nh hoặc vô h́nh trong cơ thể.

Đông y nhận thức thế nào đối với nguyên nhân và cơ chế bệnh của tan máu do bất thường bẩm sinh trong màng tế bào hồng cầu?
Theo y học cổ truyền, nguyên nhân gây ra bệnh tan máu do bất thường bẩm sinh của màng tế bào hồng cầu chủ yếu bao gồm các yếu tố như bẩm sinh không đầy đủ, tỳ vị hư yếu, can và thận âm không đủ. Một số cơ chế đằng sau các nguyên nhân này như sau:
1/ Bẩm sinh không đầy đủ
Bệnh có tính di truyền, gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, chứng tỏ bẩm sinh không đủ, có thể do cha mẹ già yếu, thai khí không đủ, hoặc suy dinh dưỡng từ trong bụng mẹ, khi chuyển dạ bị thương, dẫn đến tạng phủ không khỏe mạnh, Khí huyết không đủ, sức sống kém, cơ thể gầy yếu, sau khi sinh thường phát bệnh. {Nguyên khí Tồn vong luận} của Từ Linh Đài thời nhà Thanh từng nói: “Đương kỳ thụ sinh chi thời, dĩ hữu định phận yên” (当其受生之时,已有定分焉。)Khi sinh ra, trẻ đă được định phận rồi. Trong {Ấu khoa phát huy} của Vạn Toàn thời Minh nói: “Tiểu nhi tật bệnh hữu phụ mẫu bẩm thụ sở sinh giả, thai nhược thị dă. ……Thử thai bẩm chi bệnh, đương tuỳ kỳ tạng khí cầu chi, tử chi luy nhược, giai phụ mẫu tinh huyết chi nhược dă.” (“小儿疾病有父母禀受所生者,胎弱是 也。胎弱者,禀受于气之不足也。……此胎禀之病,当随其脏气求之,子之羸弱,皆父母精血之弱也。) Bệnh của trẻ em là do bẩm thụ từ tạng khí mà ra, thai yếu nhược cũng vậy. Thai yếu là bẩm thụ khí không đầy đủ..... Bệnh tật bẩm sinh trong bụng mẹ nên dựa theo tạng khí mà chữa, mà đứa trẻ yếu ớt tất cả đều do khí huyết của cha mẹ suy yếu. Các tài liệu này cho thấy tư chất của con người trong quá tŕnh bệnh biến có tác dụng quyết định, nếu như tinh khí của cha mẹ không khoẻ mạnh, có thể dẫn đến thai nhi hư yếu. Thời nhà Minh Chu Đan Khê chỉ ra : “Nhi chi thai tại. Dữ mẫu đồng thể. Đắc nhiệt tắc câu nhiệt, đắc hàn tắc câu hàn, đắc bệnh câu bệnh, an tắc câu an” (儿之在胎,与母同体,得热则俱热,得寒则俱寒,病则俱病,安则俱安。) Khi đứa trẻ ở trong bụng mẹ, thai và cơ thể người mẹ là một, gặp nóng th́ cả hai đều nóng, gặp lạnh th́ đều lạnh, bệnh th́ đều bệnh. B́nh an th́ đều được b́nh an. Bệnh hồng cầu h́nh cầu di truyền được di truyền trực tiếp từ mẹ sang thai nhi trong bệnh tan máu là do bất thường bẩm sinh của màng tế bào hồng cầu.
2/ Tỳ vị hư nhược
Vị trí của tỳ ở trung tiêu, là căn bản của hậu thiên, là nguồn hoá sinh khí huyết. Âm dương trên cơ thể trẻ em c̣n non yếu (gọi là trĩ âm trĩ dương) công năng tỳ vị cũng chưa kiện toàn, lại không biết tiết chế ẩm thực, v́ thế công năng tỳ vị ở trẻ rất dễ hư yếu, từ đó ăn uống giảm thiểu khiến khí huyết không đầy đủ, kế tiếp sẽ xuất hiện huyết hư. Nếu khí huyết không đầy đủ, huyết dịch tuần hoàn không tốt, sẽ xuất hiện khí trệ huyết ứ, lâu ngày sẽ tích tụ thành khối. Ngoài ra, trẻ em tỳ vị hư nhược, thực phẩm cũng không tiêu hoá, tụ thấp thành đàm, đàm và thực phẩm kết lại, gây trở ngại cho khí, dẫn đến khí trệ huyết ứ, đàm, thực phẩm, huyết ứ kết lại gọi là phích tích.
3/ Can thận âm hư
Thận là căn bản của tiên thiên, là bể chứa tinh huyết, trữ tàng chân âm và là nơi trú ngụ của nguyên dương, là gốc rễ của âm dương tạng phủ. V́ học thuyết ngũ hành cho rằng: “Thận vi can mẫu” (肾为肝母) thận là mẹ gan, nên “Can thận đồng nguyên” (肝肾同源) can thận cùng một nguồn. Can trữ tàng huyết, thận trữ tàng tinh, tinh huyết hỗ sinh, thận can cùng nguồn, tinh huyết đều là âm, âm của can và âm của thận trên phương diện sinh lư là quan hệ hỗ tương xúc tiến, trên phương diện bệnh lư là hỗ tương ảnh hưởng. Thời nhà Thanh {Loại Chứng Trị Tài} viết: “Phàm nam tử chi lao, khởi vu thương tinh; Nữ tử chi lao, do vu kinh bế; Tiểu nhi chi lao, đắc vu mẫu thai, vô bất thuỷ vu âm hư sinh nhiệt. ” (凡男子之劳,起于伤精;女子之劳,由于经闭;小儿之劳,得于 母胎,无不始于阴虚生热。) Người nam mỏi mệt là do tinh khí bị tổn thương; Người nữ mỏi mệt là do bế kinh; Trẻ em mỏi mệt là từ trong bụng mẹ, đều bắt đầu từ âm hư sinh nhiệt. Có thể thấy, thận tinh suy hư th́ thiếu nguồn chuyển hoá huyết dịch, âm của can thận hư yếu th́ không thể hoá tinh thành huyết, thậm chí khí huyết suy hư, lâu ngày thành mỏi mệt. Hư yếu lâu ngày, khí huyết càng hư, huyết lưu thông không thông sướng, sáp trệ lưu ứ tạo thành thũng khối.
Đông y căn cứ vào nguyên nhân và cơ chế bệnh phân bệnh này thành ba loại h́nh: Tỳ thận dương hư, can thận âm hư, thấp nhiệt nội uẩn, phân biệt để biện chứng luận trị.
Y học cổ truyền biện chứng luận trị hội chứng tan máu do tỳ vị dương hư gây ra do màng tế bào hồng cầu bất thường bẩm sinh như thế nào?
Biện chứng luận trị cụ thể và phương pháp điều trị của hội chứng tán huyết loại h́nh tỳ vị dương hư do bẩm sinh màng hồng cầu gây ra như sau:
Chứng trạng: Ăn ít thân thể mỏi mệt, sắc mặt trắng bệch, môi móng có màu nhạt, sợ lạnh tay chân lạnh, eo gối đau mỏi, bụng đau lạnh, phân lỏng, tiểu tiện không thuận lợi, hoặc có kết khối trong bụng, chất lưỡi nhạt, lưỡi to, rêu lưỡi trắng, mạch trầm tế.
Bệnh cơ: Tỳ thận dương hư nên cơ thể không được nuôi dưỡng ấm áp (ôn dưỡng) v́ thế âm hàn nội sinh (sinh ra ở bên trong), thuỷ cốc không vận hoá, không có nguồn hoá sinh khí huyết nên cơ thể không được nuôi dưỡng đầy đủ, thuỷ dịch đ́nh trệ mà thành bệnh. Dương hư không ấm áp, hư hàn nội sinh nên thân thể và tứ chi lạnh lẽo, sắc mặt trắng bệch, tỳ vị vận hoá yếu kém, cơ thể không được nuôi dưỡng nên ăn ít và mỏi mệt; ; Tỳ thận dương hư, âm hàn nội sinh, kinh mạch ngưng trệ nên eo lưng và bụng lănh thống (đau do lạnh); Thuỷ cốc không vận hoá nên phân lỏng; Thuỷ thấp không hoá nên tiểu tiện không thuận lợi; Khí huyết không có nguồn hoá sinh nên khí huyết đều hư tổn, tiến thêm biến thành khí trệ huyết ứ, lâu ngày kết thành khối trong bụng mà xuất hiện can tỳ thũng đại (sưng lớn). Chất lưỡi nhạt, lưỡi mập, rêu lưỡi trắng, mạch trầm tế, đều là những biểu hiện của tỳ thận dương hư.
Trị pháp: Ôn bổ tỳ thận.
Phương dược: Dùng Kim quỹ thận khí hoàn gia giảm. Dùng Quế chi 10g, Phụ tử 6g, Thục địa 12g, Sơn thù 12g, Phục linh 12g, Đan b́ 10g, Trạch tả 10g, Hoàng kỳ 30g, Đương quy 15g, Bạch truật 15g, Cam thảo 6g.
Gia giảm: Nếu can tỳ sưng lớn, có thể gia Nga truật, Kê nội kim, đau bụng tiết tả nghiêm trọng, có thể gia Huyền hồ, Tiêu tam tiên.
Y học cổ truyền biện chứng luận trị hội chứng tan máu do can thận âm hư gây ra do màng tế bào hồng cầu bẩm sinh bất thường như thế nào?
Biện chứng luận trị cụ thể và phương pháp điều trị của hội chứng tán huyết loại h́nh can thận âm hư do bẩm sinh màng hồng cầu bất thường gây ra như sau:
Chứng trạng: Vựng đầu hoa mắt, tai ù như ve kêu, miệng họng khô, eo gối đau mỏi, ngũ tâm phiền nóng, hay quên, mất ngủ, sốt nhẹ đạo hăn (xuất mồ hôi khi ngủ), chất lưỡi hồng, ít rêu, mạch tế sác.
Bệnh cơ: Can thận âm hư, hư hoả nội sinh, bốc lên ảnh hưởng thanh khiếu nên vựng đầu hoa mắt, tai ù như ve kêu, miệng họng khô; Thận âm khuy hư, thuỷ hoả không giúp nhau, nhiệt nhiễu loạn tâm thần nên hay quên mất ngủ; Hư hoả nội sinh nên ngũ tâm phiền nóng, sốt nhẹ đạo hăn (mồ hôi trộm), eo lưng là ngoại phủ (nhà bên ngoài) của thận, thận âm suy hư, nuôi dưỡng không đủ nên eo lưng đau mỏi, chất lưỡi hồng, ít rêu, mạch tế sác đều là hiện tượng của âm hư nội nhiệt (nóng bên trong).
Trị pháp: Bổ dưỡng can thận.
Phương dược: Tả quy hoàn gia giảm. Kỷ tử, Sơn dược, Bạch truật đều15g, cao Quy bản, Thục địa, Sơn thù, Ngưu tất, cao Ban long đều 12g, Thố ti tử 18g, Cam thảo 6g, Đan b́ 10g.
Gia giảm: Âm hư hoả vượng, khứ Thục địa gia Sinh địa, tăng thêm lượng Đan b́; Nếu can tỳ sưng lớn gia Tam lăng, Nga truật...

Y học cổ truyền biện chứng luận trị hội chứng tan máu do thấp nhiệt tích chứa bên trong cơ thể gây ra do màng tế bào hồng cầu bẩm sinh bất thường như thế nào?
Biện chứng luận trị cụ thể và phương pháp điều trị của hội chứng tán huyết loại h́nh do thấp nhiệt tích chứa bên trong cơ thể do bẩm sinh màng hồng cầu bất thường gây ra như sau:
Chứng trạng: Sắc mặt vàng úa, thân thể và mắt đều có màu vàng, nước tiểu màu vàng, mỏi mệt yếu sức, bụng đầy trướng, hoặc trong bụng kết khối, chán ăn, ăn ít, phân khô hoặc lỏng, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch nhu sác.
Bệnh cơ: Do tư chất bẩm sinh không đầy đủ, tỳ vị hư yếu, công năng vận hoá thất thường; Hoặc do ăn uống không tiết độ dẫn đến tỳ vị bị tổn thương, phát sinh thấp trọc. Thấp tích chứa lâu ngày hoá thành nhiệt, thấp nhiệt giao chưng (chưng hấp nhau) ở gan mật, không tiết ra ngoài dẫn đến gan không khai thông điều tiết, đảm trấp (nước mật) tràn ra, ngấm vào da thịt, đi xuống bàng quang, có thể xuất hiện thân thể và mắt đều có sắc vàng, nước tiểu màu vàng; Tỳ vị vận hoá không đúng, không thể thu nạp và tiêu hoá ẩm thực nên chán ăn, ăn ít; Nếu nhiệt nặng hơn thấp, phủ dương minh thực (Đại tràng), phủ khí không thông th́ bụng trướng đầy, đại tiện táo bón. Nếu thấp nặng hơn nhiệt th́ phân lỏng; Tỳ vị hư yếu, khí huyết sinh hoá không đủ, trở ngại khí cơ, dẫn đến khí trệ huyết ứ, đàm kết với ứ, lâu ngày tích lại thành khối trong bụng. Rêu lưỡi vàng nhờn, mạch nhu sác, đều là hiện tượng của thấp nhiệt.
Trị pháp: Thanh lợi thấp nhiệt
Phương dược: Nhân trần tứ linh tán gia giảm. Nhân trần 18g, Chi tử, Phục linh đều 12g, Trư linh, Bạch truật, Đương quy đều 15g, Hoàng kỳ 30g, Cam thảo 3g.
Gia giảm: Phân lỏng, bụng trướng là chứng trạng của tỳ hư rơ rệt, khứ Đương quy, gia Sơn dược, Ngô thù du; Nếu nhiệt nặng hơn thấp, bn phát sốt, táo bón th́ gia Đại hoàng, Hoàng cầm; Can tỳ sưng lớn, gia Nga truật, Tam lăng, Thổ phục linh...
Trường Xuân dịch
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-18 02:13:51.0
Thiếu máu tán huyết
Thiếu máu tán huyết là t́nh trạng thiếu máu do hồng cầu bị phá hủy nhanh vượt quá khả năng bù đắp của hồng cầu tủy xương, là thuật ngữ chung cho một nhóm bệnh lớn. Tuổi thọ của các tế bào hồng cầu b́nh thường trong tuần hoàn máu là khoảng 120 ngày, các tế bào hồng cầu già cỗi liên tục bị phá hủy và đào thải, các tế bào hồng cầu mới liên tục được tạo ra và giải phóng bởi tủy xương để duy tŕ động thái cân bằng. Trong bệnh thiếu máu tán huyết, thời gian tồn tại của hồng cầu bị rút ngắn với mức độ khác nhau, ngắn nhất chỉ vài ngày. Khi các nguyên nhân khác nhau dẫn đến tuổi thọ của hồng cầu bị rút ngắn, sự phá hủy quá mức và tăng khả năng tán huyết, nếu chức năng tạo máu ban đầu của tủy xương là b́nh thường, th́ chức năng tạo máu bù của tủy xương có thể tăng lên gấp 6~8 lần so với b́nh thường, và thiếu máu có thể không xảy ra. T́nh trạng này được gọi là “Đại thường tính dung huyết bệnh” (代偿性溶血病) bệnh tan máu bù. Nếu tốc độ tạo máu bù của tủy xương không thể phù hợp với tốc độ tan máu th́ sẽ xuất hiện t́nh trạng thiếu máu.
Tuổi thọ của hồng cầu bị rút ngắn, sự hủy hoại quá mức và nhanh chóng được gọi là tan máu.
Tán huyết có thể được chia thành hai loại lớn.
Tủy xương có khả năng tạo máu bù trừ mạnh, thiếu máu chỉ xảy ra khi mức độ tan máu vượt quá chức năng bù trừ của quá tŕnh tạo máu của tủy xương. Sau khi tán huyết, lượng bilirubin do huyết sắc tố phân hủy sinh ra tăng lên, không thải ra kịp thời có thể xuất hiện vàng da, gọi là vàng da tán huyết. Bệnh nhân thường bị lách to, và huyết sắc tố niệu giống như nước tương có thể xảy ra. Chẩn đoán thiếu máu tan máu ngoài các xét nghiệm máu thông thường, thường cần phải lấy máu để làm các xét nghiệm tan máu đặc biệt khác nhau để xác nhận xem có tan máu hay không và nguyên nhân gây tan máu.
Để xử lư căn bệnh này, việc pḥng ngừa và điều trị nguyên nhân là quan trọng nhất, chẳng hạn như tan máu do hóa chất và thuốc bào chế đậu tàm, và phải tránh tiếp xúc lại với các chất này.
Bệnh thiếu máu tan máu tự miễn dịch và bệnh tan máu ở trẻ sơ sinh có thể được điều trị bằng Cường đích tùng ( prednisone). Khi xuất hiện chứng huyết sắc tố kịch phát về đêm, truyền tĩnh mạch anhydrit dexarginic có thể ức chế tán huyết, và y học cổ truyền, androgen và prednisone cũng có tác dụng chữa bệnh nhất định. Mặc dù phẫu thuật cắt lách đối với bệnh hồng cầu h́nh cầu di truyền không thể thay đổi các khiếm khuyết của hồng cầu, nhưng nó có thể làm giảm bớt các triệu chứng tan máu và ngăn ngừa các bệnh đi kèm. Cắt lách chữa cường lách có tác dụng chữa bệnh tốt.

Tư liệu tham khảo:
Trên lâm sàng c̣n có một số bệnh và t́nh trạng thiếu máu khác làm rút ngắn đời sống hồng cầu như viêm măn tính, nhiễm trùng, ung thư di căn rộng, bệnh bạch cầu, u lympho ác tính, suy thận, bệnh gan, viêm khớp dạng thấp, thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ, các chứng trạng thiếu máu này cần được phân biệt. Nguyên nhân gây thiếu máu ở các bệnh này không phải do tan máu, không phải do hồng cầu bị phá hủy quá nhanh mà do quá tŕnh sản xuất hồng cầu bị chậm lại, tuổi thọ của hồng cầu bị rút ngắn nhưng không nhiều như trong bệnh huyết hư do tan máu.

Biểu hiện lâm sàng của bệnh thiếu máu tán huyết là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của thiếu máu huyết tán có liên quan đến mức độ khẩn cấp, mức độ và vị trí của tan máu, v́ vậy các triệu chứng và dấu hiệu của tan máu cấp tính và tan máu măn tính là khác nhau.
Tán huyết cấp tính: Khởi phát nhanh, ớn lạnh đột ngột, sốt cao, đau thắt lưng, khó thở, mệt mỏi, khó chịu, buồn nôn, nôn, đau bụng và các triệu chứng tiêu hóa khác. Trong trường hợp lượng lớn tán huyết nội mạch có thể nh́n thấy huyết sắc tố trong nước tiểu, màu nước tiểu giống như trà đen đậm đặc hoặc nước tương, ngoài ra c̣n có thể xuất hiện vàng da nhẹ. Nếu phản ứng tán huyết do truyền máu không đúng cách có thể thấy ít nước tiểu, không có nước tiểu và suy thận cấp. V́ thiếu máu cấp tính dẫn đến thiếu dưỡng khí nghiêm trọng nên có thể thấy tinh thần bệnh nhân thờ ơ, hời hợt hoặc hôn mê, sốc và suy tim.
Tan máu mạn tính: khởi phát chậm, các triệu chứng lâm sàng và dấu hiệu thiếu máu mạn tính như mệt mỏi, xanh xao, khó thở, chóng mặt…, cũng có thể gặp ở các mức độ vàng da khác nhau. Phổ biến hơn với gan lách to. Biến chứng phổ biến hơn là sỏi mật chứa sắc tố mật, có thể là thứ phát sau tắc nghẽn ống mật chủ và vàng da tắc mật. Trong bệnh thiếu máu hồng cầu h́nh liềm, loét da ở mắt cá chân của các chi dưới là phổ biến và khó chữa lành. Các triệu chứng thiếu máu di truyền có thể đến và đi theo thời gian do những thay đổi trong t́nh trạng bệnh.
Tan máu mạn tính: Khởi phát chậm, có thể thấy rơ trên lâm sàng các triệu chứng và dấu hiệu thiếu máu mạn tính như mệt mỏi, xanh xao, khó thở, chóng mặt, vàng da ở các mức độ khác nhau. Phổ biến hơn với gan lách to. Biến chứng phổ biến hơn là sỏi mật chứa sắc tố mật, có thể là thứ phát sau tắc nghẽn ống mật chủ và vàng da tắc mật. Trong bệnh thiếu máu hồng cầu h́nh liềm, loét da ở mắt cá chân của các chi dưới là phổ biến và khó chữa lành. Các triệu chứng thiếu máu di truyền có thể đến và đi theo thời gian do những thay đổi trong t́nh trạng bệnh.
Y học cổ truyền hiểu như thế nào về chứng tan máu do bất thường bẩm sinh của màng tế bào hồng cầu?
V́ bệnh tan máu do bất thường bẩm sinh của màng hồng cầu có biểu hiện lâm sàng là thiếu máu, suy nhược, vàng da, gan lách to và chủ yếu xảy ra ở trẻ em, v́ thế bệnh này thuộc phạm trù “Hư lao”, “Cam chứng” “ Đồng tử lao”, “Hoàng đản” và “Tích tụ”.
Trong {Ấu ấu tập thành} viết thời nhà Thanh có ghi: “Phu cam chi vi bệnh giả, diệc tiểu nhi ác hậu, thập lục tuế dĩ tiền bệnh vi cam, thập lục dĩ thượng, kỳ bệnh vi lao” Chứng cam gây bệnh, là hội chứng xấu ở trẻ, trước 16 tuổi gọi là bệnh cam, 16 tuổi trở lên là lao là khó nhọc vất vả. Những ghi chép tương tự về triệu chứng thiếu máu và suy nhược của bệnh này có thể được t́m thấy trong sách y học cổ đại. Như trong {Y Lâm Thằng Mặc}: “Yêu toan cước nhuyễn, hoặc hung muộn khí đoản, tâm phiền bất an, hoặc nhĩ minh mục huyễn ……hoặc thực thiểu vô vị, bất tác cơ phu, thuỵ trung kinh quư, ngọ hậu phát nhiệt, hoặc đăi quyện vô lực, tứ chi bất thu, hoặc hư hoả thượng công, diện xích suyễn cấp, thử giai hư tổn chi chứng” (腰酸脚软,或胸闷气短,心烦不安,或耳鸣目眩……或食少无味,不作肌肤,睡中惊悸,午后发热,或怠倦无力,四肢不收,或虚火上攻,面 赤喘急,此皆虚损之证。) Lưng đau chân mỏi, hoặc ngực bế tắc thở ngắn, tâm phiền muộn bất an, ù tai hoa mắt.... ăn không biết ngon, không có cơ bắp, , mê sảng sợ hăi khi ngủ, phát sốt sau trưa, hoặc mỏi mệt yếu sức, tứ chi yếu nhược, hoặc hư hoả bốc lên, mặt đỏ suyễn cấp, đều là các chứng hư tổn. Nguyên nhân khởi phát những bệnh chứng này, {Ấu ấu tập thành} cho rằng “Giai chân nguyên khiếp nhược, khí huyết hư suy chi sở chí dă” (皆真元怯弱,气血虚衰之所致也”) Đều do chân nguyên khiếp nhược, khí huyết hư suy gây ra bệnh. {Thọ Thế Bảo Nguyên} viết: “Phu cam giả, cam ph́ vô tiết, nhũ thực bất điều, hoặc bẩm phú khiếp nhược, khí huyết bất túc”( 夫疳者,甘肥无节,乳食不调,或 禀赋怯弱,气血不足) Bệnh cam tích, ăn uống ngọt béo không tiết độ, sữa và thực phẩm không điều độ, hoặc tố chất bẩm sinh kém, khí huyết không đầy đủ mà thành bệnh. Điều này cho thấy nguyên nhân của bệnh không chỉ do nhân tố bẩm sinh yếu nhược mà c̣n có các nhân tố khác như tỳ vị hư nhược và khí huyết không đầy đủ, nhưng nhân tố bẩm sinh quan trọng hơn. {Loại chứng trị tài} viêt: “Tiểu nhi chi lao đắc vu mẫu thai” (小儿之劳得于母胎) Bệnh của thai nhi thụ nhận từ thai mẹ, thêm nữa “Hư lao tắc do tiên thiên bẩm thụ bất túc, nhi bẩm vu mẫu khí vưu đa, cố nhất ban xưng vi đồng tử lao.” (虚劳则由先天禀受不足,而禀于母气尤多,故一般称为童子劳。)Hư lao là do bẩm thụ không đầy đủ, mà nhất là bẩm thụ từ tinh khí của mẹ, v́ thế nên chứng này c̣n được gọi là đồng tử lao. Loại bệnh này chính là do nhân tố di truyền mà gây bệnh.
Bệnh chứng vàng da có liên quan với đặc điểm sinh lư của ấu nhi. Đông y cho rằng, trẻ em thuộc thể trĩ âm trĩ dương (âm dương non trẻ chưa hoàn thiện), công năng tạng phủ chưa kiện toàn, thường có biểu hiện là “Thận khí bất túc” (肾气不足)thận khí không đầy đủ, “Tỳ thường hư” (脾常虚) tạng tỳ hư yếu. Công năng hai tạng tỳ thận không kiện toàn th́ có thể dẫn đến chứng vàng da. Trong {Ấu ấu tập thành} luận về nguyên nhân vàng da ở trẻ viết: “Thấp nhiệt phát hoàng giả thiểu, tỳ hư phát hoàng giả đa. Cái tỳ thổ cường giả túc dĩ cản ngự thấp nhiệ, tất bất sinh hoàng. Duy kỳ tỳ hư bất vận, sở dĩ thấp nhiệt thừa chi” (湿热发黄者少,脾虚发黄者多。盖脾土强者足以捍御湿热,必不生黄。唯其脾虚不运,所以湿热乘之。). Thấp nhiệt gây bệnh vàng da th́ ít, phần lớn bệnh vàng da là do tỳ hư. Tỳ thổ mạnh mẽ đủ để ngăn cản thấp nhiệt gây bệnh vàng da. Chỉ khi tạng tỳ hư yếu không vận chuyển mạnh mẽ, v́ thế thấp nhiệt thừa thế gây bệnh (vàng da).
Bệnh chứng can tỳ sưng lớn cũng liên quan với công năng tỳ thận không kiện toàn ở trẻ. {Cảnh Nhạc toàn thư}viết: “Phàm tỳ thận bất túc cập hư nhược bất điều chi nhân, đa hữu tích tụ chi bệnh.” (凡脾肾不足及虚弱失调之人,多有积聚之病。) Phàm người công năng tỳ thận không đầy đủ và là người hư yếu không điều độ th́ thường có bệnh về tích tụ {Ấu ấu tập thành} th́ viết, trẻ em “Tỳ vị bất thắng, nhũ bô thất điều, tam tiêu bất vận, thuỷ ẩm đ́nh trệ, lănh khí bác chi, kết tụ nhi tích dă” Tỳ vị không mạnh mẽ, bú sữa không điều độ, tam tiêu không kiện vận, thuỷ ẩm đ́nh trệ, khí lạnh xâm phạm, kết tụ mà thành bệnh. Tích tụ là chỉ về thũng khối hữu h́nh hoặc vô h́nh trong cơ thể.

Đông y nhận thức thế nào đối với nguyên nhân và cơ chế bệnh của tan máu do bất thường bẩm sinh trong màng tế bào hồng cầu?
Theo y học cổ truyền, nguyên nhân gây ra bệnh tan máu do bất thường bẩm sinh của màng tế bào hồng cầu chủ yếu bao gồm các yếu tố như bẩm sinh không đầy đủ, tỳ vị hư yếu, can và thận âm không đủ. Một số cơ chế đằng sau các nguyên nhân này như sau:
1/ Bẩm sinh không đầy đủ
Bệnh có tính di truyền, gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, chứng tỏ bẩm sinh không đủ, có thể do cha mẹ già yếu, thai khí không đủ, hoặc suy dinh dưỡng từ trong bụng mẹ, khi chuyển dạ bị thương, dẫn đến tạng phủ không khỏe mạnh, Khí huyết không đủ, sức sống kém, cơ thể gầy yếu, sau khi sinh thường phát bệnh. {Nguyên khí Tồn vong luận} của Từ Linh Đài thời nhà Thanh từng nói: “Đương kỳ thụ sinh chi thời, dĩ hữu định phận yên” (当其受生之时,已有定分焉。)Khi sinh ra, trẻ đă được định phận rồi. Trong {Ấu khoa phát huy} của Vạn Toàn thời Minh nói: “Tiểu nhi tật bệnh hữu phụ mẫu bẩm thụ sở sinh giả, thai nhược thị dă. ……Thử thai bẩm chi bệnh, đương tuỳ kỳ tạng khí cầu chi, tử chi luy nhược, giai phụ mẫu tinh huyết chi nhược dă.” (“小儿疾病有父母禀受所生者,胎弱是 也。胎弱者,禀受于气之不足也。……此胎禀之病,当随其脏气求之,子之羸弱,皆父母精血之弱也。) Bệnh của trẻ em là do bẩm thụ từ tạng khí mà ra, thai yếu nhược cũng vậy. Thai yếu là bẩm thụ khí không đầy đủ..... Bệnh tật bẩm sinh trong bụng mẹ nên dựa theo tạng khí mà chữa, mà đứa trẻ yếu ớt tất cả đều do khí huyết của cha mẹ suy yếu. Các tài liệu này cho thấy tư chất của con người trong quá tŕnh bệnh biến có tác dụng quyết định, nếu như tinh khí của cha mẹ không khoẻ mạnh, có thể dẫn đến thai nhi hư yếu. Thời nhà Minh Chu Đan Khê chỉ ra : “Nhi chi thai tại. Dữ mẫu đồng thể. Đắc nhiệt tắc câu nhiệt, đắc hàn tắc câu hàn, đắc bệnh câu bệnh, an tắc câu an” (儿之在胎,与母同体,得热则俱热,得寒则俱寒,病则俱病,安则俱安。) Khi đứa trẻ ở trong bụng mẹ, thai và cơ thể người mẹ là một, gặp nóng th́ cả hai đều nóng, gặp lạnh th́ đều lạnh, bệnh th́ đều bệnh. B́nh an th́ đều được b́nh an. Bệnh hồng cầu h́nh cầu di truyền được di truyền trực tiếp từ mẹ sang thai nhi trong bệnh tan máu là do bất thường bẩm sinh của màng tế bào hồng cầu.
2/ Tỳ vị hư nhược
Vị trí của tỳ ở trung tiêu, là căn bản của hậu thiên, là nguồn hoá sinh khí huyết. Âm dương trên cơ thể trẻ em c̣n non yếu (gọi là trĩ âm trĩ dương) công năng tỳ vị cũng chưa kiện toàn, lại không biết tiết chế ẩm thực, v́ thế công năng tỳ vị ở trẻ rất dễ hư yếu, từ đó ăn uống giảm thiểu khiến khí huyết không đầy đủ, kế tiếp sẽ xuất hiện huyết hư. Nếu khí huyết không đầy đủ, huyết dịch tuần hoàn không tốt, sẽ xuất hiện khí trệ huyết ứ, lâu ngày sẽ tích tụ thành khối. Ngoài ra, trẻ em tỳ vị hư nhược, thực phẩm cũng không tiêu hoá, tụ thấp thành đàm, đàm và thực phẩm kết lại, gây trở ngại cho khí, dẫn đến khí trệ huyết ứ, đàm, thực phẩm, huyết ứ kết lại gọi là phích tích.
3/ Can thận âm hư
Thận là căn bản của tiên thiên, là bể chứa tinh huyết, trữ tàng chân âm và là nơi trú ngụ của nguyên dương, là gốc rễ của âm dương tạng phủ. V́ học thuyết ngũ hành cho rằng: “Thận vi can mẫu” (肾为肝母) thận là mẹ gan, nên “Can thận đồng nguyên” (肝肾同源) can thận cùng một nguồn. Can trữ tàng huyết, thận trữ tàng tinh, tinh huyết hỗ sinh, thận can cùng nguồn, tinh huyết đều là âm, âm của can và âm của thận trên phương diện sinh lư là quan hệ hỗ tương xúc tiến, trên phương diện bệnh lư là hỗ tương ảnh hưởng. Thời nhà Thanh {Loại Chứng Trị Tài} viết: “Phàm nam tử chi lao, khởi vu thương tinh; Nữ tử chi lao, do vu kinh bế; Tiểu nhi chi lao, đắc vu mẫu thai, vô bất thuỷ vu âm hư sinh nhiệt. ” (凡男子之劳,起于伤精;女子之劳,由于经闭;小儿之劳,得于 母胎,无不始于阴虚生热。) Người nam mỏi mệt là do tinh khí bị tổn thương; Người nữ mỏi mệt là do bế kinh; Trẻ em mỏi mệt là từ trong bụng mẹ, đều bắt đầu từ âm hư sinh nhiệt. Có thể thấy, thận tinh suy hư th́ thiếu nguồn chuyển hoá huyết dịch, âm của can thận hư yếu th́ không thể hoá tinh thành huyết, thậm chí khí huyết suy hư, lâu ngày thành mỏi mệt. Hư yếu lâu ngày, khí huyết càng hư, huyết lưu thông không thông sướng, sáp trệ lưu ứ tạo thành thũng khối.
Đông y căn cứ vào nguyên nhân và cơ chế bệnh phân bệnh này thành ba loại h́nh: Tỳ thận dương hư, can thận âm hư, thấp nhiệt nội uẩn, phân biệt để biện chứng luận trị.
Y học cổ truyền biện chứng luận trị hội chứng tan máu do tỳ vị dương hư gây ra do màng tế bào hồng cầu bất thường bẩm sinh như thế nào?
Biện chứng luận trị cụ thể và phương pháp điều trị của hội chứng tán huyết loại h́nh tỳ vị dương hư do bẩm sinh màng hồng cầu gây ra như sau:
Chứng trạng: Ăn ít thân thể mỏi mệt, sắc mặt trắng bệch, môi móng có màu nhạt, sợ lạnh tay chân lạnh, eo gối đau mỏi, bụng đau lạnh, phân lỏng, tiểu tiện không thuận lợi, hoặc có kết khối trong bụng, chất lưỡi nhạt, lưỡi to, rêu lưỡi trắng, mạch trầm tế.
Bệnh cơ: Tỳ thận dương hư nên cơ thể không được nuôi dưỡng ấm áp (ôn dưỡng) v́ thế âm hàn nội sinh (sinh ra ở bên trong), thuỷ cốc không vận hoá, không có nguồn hoá sinh khí huyết nên cơ thể không được nuôi dưỡng đầy đủ, thuỷ dịch đ́nh trệ mà thành bệnh. Dương hư không ấm áp, hư hàn nội sinh nên thân thể và tứ chi lạnh lẽo, sắc mặt trắng bệch, tỳ vị vận hoá yếu kém, cơ thể không được nuôi dưỡng nên ăn ít và mỏi mệt; ; Tỳ thận dương hư, âm hàn nội sinh, kinh mạch ngưng trệ nên eo lưng và bụng lănh thống (đau do lạnh); Thuỷ cốc không vận hoá nên phân lỏng; Thuỷ thấp không hoá nên tiểu tiện không thuận lợi; Khí huyết không có nguồn hoá sinh nên khí huyết đều hư tổn, tiến thêm biến thành khí trệ huyết ứ, lâu ngày kết thành khối trong bụng mà xuất hiện can tỳ thũng đại (sưng lớn). Chất lưỡi nhạt, lưỡi mập, rêu lưỡi trắng, mạch trầm tế, đều là những biểu hiện của tỳ thận dương hư.
Trị pháp: Ôn bổ tỳ thận.
Phương dược: Dùng Kim quỹ thận khí hoàn gia giảm. Dùng Quế chi 10g, Phụ tử 6g, Thục địa 12g, Sơn thù 12g, Phục linh 12g, Đan b́ 10g, Trạch tả 10g, Hoàng kỳ 30g, Đương quy 15g, Bạch truật 15g, Cam thảo 6g.
Gia giảm: Nếu can tỳ sưng lớn, có thể gia Nga truật, Kê nội kim, đau bụng tiết tả nghiêm trọng, có thể gia Huyền hồ, Tiêu tam tiên.
Y học cổ truyền biện chứng luận trị hội chứng tan máu do can thận âm hư gây ra do màng tế bào hồng cầu bẩm sinh bất thường như thế nào?
Biện chứng luận trị cụ thể và phương pháp điều trị của hội chứng tán huyết loại h́nh can thận âm hư do bẩm sinh màng hồng cầu bất thường gây ra như sau:
Chứng trạng: Vựng đầu hoa mắt, tai ù như ve kêu, miệng họng khô, eo gối đau mỏi, ngũ tâm phiền nóng, hay quên, mất ngủ, sốt nhẹ đạo hăn (xuất mồ hôi khi ngủ), chất lưỡi hồng, ít rêu, mạch tế sác.
Bệnh cơ: Can thận âm hư, hư hoả nội sinh, bốc lên ảnh hưởng thanh khiếu nên vựng đầu hoa mắt, tai ù như ve kêu, miệng họng khô; Thận âm khuy hư, thuỷ hoả không giúp nhau, nhiệt nhiễu loạn tâm thần nên hay quên mất ngủ; Hư hoả nội sinh nên ngũ tâm phiền nóng, sốt nhẹ đạo hăn (mồ hôi trộm), eo lưng là ngoại phủ (nhà bên ngoài) của thận, thận âm suy hư, nuôi dưỡng không đủ nên eo lưng đau mỏi, chất lưỡi hồng, ít rêu, mạch tế sác đều là hiện tượng của âm hư nội nhiệt (nóng bên trong).
Trị pháp: Bổ dưỡng can thận.
Phương dược: Tả quy hoàn gia giảm. Kỷ tử, Sơn dược, Bạch truật đều15g, cao Quy bản, Thục địa, Sơn thù, Ngưu tất, cao Ban long đều 12g, Thố ti tử 18g, Cam thảo 6g, Đan b́ 10g.
Gia giảm: Âm hư hoả vượng, khứ Thục địa gia Sinh địa, tăng thêm lượng Đan b́; Nếu can tỳ sưng lớn gia Tam lăng, Nga truật...

Y học cổ truyền biện chứng luận trị hội chứng tan máu do thấp nhiệt tích chứa bên trong cơ thể gây ra do màng tế bào hồng cầu bẩm sinh bất thường như thế nào?
Biện chứng luận trị cụ thể và phương pháp điều trị của hội chứng tán huyết loại h́nh do thấp nhiệt tích chứa bên trong cơ thể do bẩm sinh màng hồng cầu bất thường gây ra như sau:
Chứng trạng: Sắc mặt vàng úa, thân thể và mắt đều có màu vàng, nước tiểu màu vàng, mỏi mệt yếu sức, bụng đầy trướng, hoặc trong bụng kết khối, chán ăn, ăn ít, phân khô hoặc lỏng, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch nhu sác.
Bệnh cơ: Do tư chất bẩm sinh không đầy đủ, tỳ vị hư yếu, công năng vận hoá thất thường; Hoặc do ăn uống không tiết độ dẫn đến tỳ vị bị tổn thương, phát sinh thấp trọc. Thấp tích chứa lâu ngày hoá thành nhiệt, thấp nhiệt giao chưng (chưng hấp nhau) ở gan mật, không tiết ra ngoài dẫn đến gan không khai thông điều tiết, đảm trấp (nước mật) tràn ra, ngấm vào da thịt, đi xuống bàng quang, có thể xuất hiện thân thể và mắt đều có sắc vàng, nước tiểu màu vàng; Tỳ vị vận hoá không đúng, không thể thu nạp và tiêu hoá ẩm thực nên chán ăn, ăn ít; Nếu nhiệt nặng hơn thấp, phủ dương minh thực (Đại tràng), phủ khí không thông th́ bụng trướng đầy, đại tiện táo bón. Nếu thấp nặng hơn nhiệt th́ phân lỏng; Tỳ vị hư yếu, khí huyết sinh hoá không đủ, trở ngại khí cơ, dẫn đến khí trệ huyết ứ, đàm kết với ứ, lâu ngày tích lại thành khối trong bụng. Rêu lưỡi vàng nhờn, mạch nhu sác, đều là hiện tượng của thấp nhiệt.
Trị pháp: Thanh lợi thấp nhiệt
Phương dược: Nhân trần tứ linh tán gia giảm. Nhân trần 18g, Chi tử, Phục linh đều 12g, Trư linh, Bạch truật, Đương quy đều 15g, Hoàng kỳ 30g, Cam thảo 3g.
Gia giảm: Phân lỏng, bụng trướng là chứng trạng của tỳ hư rơ rệt, khứ Đương quy, gia Sơn dược, Ngô thù du; Nếu nhiệt nặng hơn thấp, bn phát sốt, táo bón th́ gia Đại hoàng, Hoàng cầm; Can tỳ sưng lớn, gia Nga truật, Tam lăng, Thổ phục linh...
Trường Xuân dịch
 
Reply with a quote
Replied by Cần Giuộc (Hội Viên)
on 2024-01-21 21:31:11.0
Chào Trường Xuân
Chần thành cám ơn đă đăng bài !
Có thể ghi rơ dịch từ sách nào ?
Thanks
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-23 21:51:55.0
Chào bạn Cần Giuộc
Các bài này tôi đọc và dịch từ một trang web từ cuối thế kỷ trước khoảng 1993 và trang web này hiện giờ không t́m thấy nữa, trong những năm làm thuốc, tôi ứng dụng và thấy có kết quả, bây giờ đă nghỉ hưu có thời gian rảnh nên sửa lại bản dịch để chia sẻ, c̣n khá nhiều bài nếu c̣n thời gian và tinh thần c̣n tốt th́ sẽ tiếp tục nếu sức khoẻ cho phép.Xin chào
Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-23 22:25:02.0
ĐÔNG Y ĐIỀU TRỊ BỆNH TÂM LUẬT THẤT THƯỜNG (RỐI LOẠN NHỊP TIM)
120 Đông y điều trị bệnh tâm luật thất thường
(Rối loạn nhịp tim)

Rối loạn nhịp tim thuộc phạm trù nào của Đông y
Rối loạn nhịp tim (Tâm luật thất thường) thuộc phạm trù tâm quư, chinh xung, hung tí, huyễn vựng của đông y. Biểu hiện trên mạch tượng gồm các loại mạch kết, đại, tŕ, sác…
Tâm quư là tim đập không yên, lúc phát tác lúc không. Chinh xung là tim đập nhanh không lúc nào yên, không thể tự chủ. Do sợ hăi mà phát bệnh th́ gọi là kinh quư. Tâm quư và chinh xung có nguyên nhân bệnh và mức độ bệnh khác nhau, tâm quư thường do sợ hăi, giận dữ mà phát bệnh (yếu tố tinh thần), t́nh huống toàn thân khá tốt, thời gian phát tác ngắn, t́nh trạng bệnh nhẹ, chinh xung không do sợ hăi mà tự cảm thấy hồi hộp bất an, lao động là bệnh phát tác, t́nh huống toàn thân kém, t́nh trạng bệnh nặng (yếu tố thể chất). {Y học chính truyền . Chinh xung kinh quư kiện vong chứng} viết: “Phu sở vị chinh xung giả dịch dịch nhiên động dao nhi bất đắc an tĩnh, vô thời nhi tác giả thị dă, kinh quư giả, mạch nhiên như đào dược kinh động nhi hữu dục quyết chi trạng, hữu thời nhi tác giả thị dă” (夫所谓怔忡者,心中惕惕然动摇而不得安静,无时而作者是也。惊悸者,蓦然而跳跃惊动而有欲厥之状,有时而作者是也。) Chứng chinh xung là trong ḷng luôn sợ hăi không lúc nào an tĩnh, và lúc nào cũng như vậy. Kinh quư là đột nhiên kinh động tay chân lạnh ngắt, đôi khi phát tác (không phải luôn luôn) th́ gọi là kinh quư.
YHCT thông qua thiết mạch để quan sát biến hoá của nhịp đập của tim. Được ghi lại sớm nhất trong sách {Hoàng đế Nội kinh}, như trong {Tố vấn nhất hấp mạch nhất động, viết thiểu khí……Nhân nhất hô mạch tứ động dĩ thượng viết tử.”. (人一呼脉一动,一吸脉一动,曰少气。……人一呼脉四动以上曰死。) Một lần thở ra mạch đập một lần, một lần hít vào mạch đập một lần, là thiểu khí……. Người một lần thở ra mạch đập 4 lần trở lên là chết.” Lại như {Mạch kinh} ghi: “Sạ đại sạ tiểu, sạ sơ sạ sác.” (乍大乍小,乍疏乍数。)Lúc lớn lúc nhỏ, lúc chậm lúc nhanh. “Như ma đậu kích thủ” (如麻豆击手)Như đậu mè chạm tay”…Đều là những miêu tả h́nh tượng mạch của chứng rối loạn nhịp tim.
Những y gia đời sau thông qua thực tiễn lâm sàng, dựa theo h́nh tượng mạch miêu tả thành các mạch: Kết, đại, súc, sác, tŕ đều là những mạch của chứng rối loạn nhịp tim. Mạch kết chậm răi, có lúc ngừng một lần, ngừng không theo số lần đập nhất định, tức là tần suất mạch chậm, khi đập chậm mà có một lần ngưng lại, sau khi ngưng lại tiếp tục đập, quá tŕnh ngưng đập không có tính quy luật; Mạch đại (đổi代) là mạch có lúc ngưng đập một lần, ngừng theo số lần đập nhất định, (lương cử phương lai)* thời gian một lần ngưng đập tương đối dài như tốc độ của mạch tŕ. Mạch súc có tần suất nhanh như mạch sác, có lúc ngưng đập một lần, ngừng không theo số lần đập nhất định, có biểu hiện là tần suất mạch nhanh, trong quá tŕnh mạch đập có lúc ngừng lại, nhưng ngưng lại không có tính quy luật nhất định,sau khi ngừng lại tiếp tục đập. Mạch sác trong một lần thở ra hít vào, mạch đập 5 lần trở lên. Mạch tŕ tần suất mạch đập chậm, nhất tức 3 lần đập.
Hung tư, gọi là tư có ư nghĩa là ngực bế tắc không thông: Hung tư chỉ về trong lồng ngực bị bệnh gây trở ngại, khí huyết bị ảnh hưởng bế tắc không thông sướng, dẫn đến cơ năng tạng tâm mất điều hoà, “bất thông tắc thống” (不通则痛) không thông th́ đau, xuất hiện chứng lồng ngực phiền muộn không thư sướng và có lúc xuất hiện đau ngực. 
Huyễn vựng là gọi chung của chứng mục huyễn (hoa mắt) và đầu vựng (váng đầu). Mục huyễn là hoa mắt tối mắt, nh́n vật không rơ. Đầu vựng là cảm giác thân ḿnh hoặc cảnh vật ngoại giới xoay tṛn, đứng ngồi không yên. Những điều này do tâm huyết suy kém, tinh thần không ổn định hoặc tâm huyết khuy háo, không nuôi dưỡng phần đầu mặt mà dẫn đến bệnh.
 Các y gia luận thuật về “Kinh quư Chinh xung” như thế nào?
Có nhiều luận thuật bệnh chứng của kinh quư và chinh xung, Đầu tiên người ta thấy những luận thuật về hội chứng lâm sàng và mạch tượng trong {Hoàng đế nội kinh}. Như trong {Tố vấn . B́nh nhân khí tượng luận}: “Vị chi đại lạc, danh viết hư lư, quán cách lạc phế, xuất tả nhũ hạ, kỳ động ứng thủ, mạch tông khí dă. Thịnh suyễn sác tuyệt giả bệnh tại trung; Kết nhi hoành hữu tích hĩ; Tuyệt nhi bất chí viết tử. Nhũ chi hạ, kỳ động ứng thủ, tông khí tiết dă.” (胃之大络,名曰虚里,贯鬲络肺,出左乳下,其动应手,脉宗气也。盛喘数绝者则病在中;结而横有积矣;绝而不至曰死。乳之下,其动应手,宗气泄也。) Đại lạc của vị, tên là hư lư, đi qua cách (huyệt ở đốt thứ 7 trên xương sống)vào phổi, xuất ra phía dưới vú bên trái, đặt tay lên thấy mạch đập, là mạch tông khí. Có chỗ ghi mạch đập ứng y (mạch đập tác động lên áo)). Nếu suyễn nhiều mà mạch ở Hư lư thường bị tuyệt, là bệnh tại trung (Chiên trung); Kết lại và hoành lạc bị tích trệ, tuyệt và không “chí” (đến) là chết. Ở dưới vú, mạch động ứng thủ (đặt tay lên thấy mạch), là tông khí tiết” (vị khí tiết là chết). 
 {Tố vấn . Tư luận}: “Tâm tí giả, mạch bất thông, phiền tắc tâm hạ cổ” tâm tư, mạch bất thông, phiền tắc tâm hạ cổ”( 心痹者,脉不通,烦则心下鼓。)Tâm tư huyết mạch không thông, v́ bệnh tà bức bách dưới tâm nên tâm phiền) Những luận thuật này đều nói về hiện tượng tâm quư chinh xung Lại như{Tố vấn . Tam bộ cửu hậu luận}: “Tham ngẫu bất điều giả bệnh.” (参伍不调者病。) lúc 3 lúc 5 không điều hoà là bệnh {Linh khu . Căn kết}: “Tŕ kỳ mạch khẩu, số kỳ trí dă (mạch đập ở mạch khẩu) ngũ thập động nhi bất nhất đại giả, ngũ tạng giai thụ khí, tứ thập động nhất đại giả, nhất tạng vô khí, tam thập động nhất đại gả, nhị tạng vô khí……, bất măn thập động nhất đại giả, ngũ tạng vô khí.” (持其脉口,数其至也,五十动而不一代者,五脏皆受气,四十动一代者,一藏无气,三十动一代者,二藏无气……不满十动一代者,五藏无气。) Đếm số nhịp đập ở mạch khẩu, 50 lần đập không biến đổi, là ngũ tạng đều thụ khí, 40 lần đập 1 lần mạch biến đổi là có 1 tạng không có khí, 30 nhịp đập có một lần biến đổi mạch là 2 tạng không có khí (khí là biểu hiện của sự sống c̣n gọi là thần), không đủ 10 nhịp đập có một lần mạch biến đổi là 5 tạng không có khí.

“Dư chi đoản kỳ giả, sạ sác sạ sơ dă.” (予之短期者,乍数乍疏也。)Trong một khoảng thời gian ngắn, mạch lúc nhanh lúc chậm. Những mô tả trên đều ghi lại khi chẩn mạch thấy mạch chậm, mạch nhanh, mạch không đều, là những mạch tượng hoàn toàn phù hợp với chứng kinh quư và chinh xung.
Đời Hán. Y gia Trương Trọng Cảnh viết trong {Kim quỹ yếu lược} ở thiên “Kinh quư thổ nục hạ huyết hung măn ứ huyết bệnh mạch chứng trị”, đồng thời viết “ Động tắc vi kinh, nhược tắc vi quư” (动则为惊,弱则为悸). Cho rằng trường hợp trước v́ kinh sợ mà mạch động, trường hợp sau v́ hư tổn mà sợ. Đồng thời chỉ xuất “Tâm trung quư nhi phiền giả, Tiểu kiến trung thang chủ chi” (心中悸而烦者,小建中汤主之) sợ hăi phiền muộn trong tim, dùng thang tiểu kiến trung {Thương hàn luận} tiến thêm một bước : “Thương hàn mạch kết đại, tâm động sợ hăi, dùng thang chích cam thảo.”Mà Chích cam thảo thang vẫn dùng cho đến ngày nay, và là phương tễ trọng yếu hàng đầu để điều trị chứng tâm quư (sợ hăi).
Tôn Tư Mạo đời nhà Đường trong Thiên kim yếu phương: “Dương khí ngoại kích, âm khí nội thương, thương tắc hàn, hàn tắc hư, gây chứng tâm quư, dùng phương Định tâm hoàn” (阳气外击,阴气内伤,伤则寒,寒则虚,虚则惊,掣心悸,定心丸主之。) Bên ngoài dương khí bị công kích, bên trong âm bị thương tổn, tổn thương th́ hàn lănh, hàn th́ hư yếu, hư yếu th́ kinh hăi, Định tâm hoàn chủ trị bệnh này, cũng chính là nhận thức chứng hồi hộp là do nguyên nhân hư tổn.
Nghiêm dụng Hoà (Tống) {Tế sinh phương} Luận thuật khá tỉ mỉ nguyên nhân cơ chế bệnh và trị pháp phương dược đối với chứng tâm quư chinh xung. Cho rằng tâm quư là “ Do tâm hư đảm khiếp gây ra”. “Hoặc gặp chuyện quá sợ hăi, nghe hư thanh, thấy dị tướng, trèo cao, đi nơi hiểm trở, sợ hăi, tham cầu ưu uất, đều có thể gây thành chứng kinh quư. Kinh quư không ngừng, biến thành các chứng như hoặc thở ngắn sợ hăi, thân thể mỏi mệt, tự hăn, chân tay phù thũng, ăn uống vô vị, tâm hư phiền muộn, ngồi nằm không yên, điều trị dùng “Ninh tâm để tráng (mạnh) đảm khí, dùng phương Ôn đảm thang, Viễn chí hoàn”. Cho rằng chứng Chinh xung (rối loạn lo âu) do tâm huyết bất túc gây ra, cũng có nguyên nhân là cảm thụ ngoại tà ngũ ẩm đ́nh tụ, hàn lănh nghẽn tắc trong dạ dày gây ra như trong đoạn sau: “Chinh xung thử tâm huyết bất túc dă. …… Hựu mạo phong hàn thử thấp bế tắc chư kinh, linh nhân chinh xung, ngũ ẩm đ́nh súc diệc linh nhân chinh xung. (夫怔忡者,此心血不足也。……又有冒风寒暑湿,闭塞诸经,令 人怔忡。五饮停蓄,堙寒中脘,亦令人怔忡)
Lưu Hoàn Tố (Kim) trong {Tố vấn huyền cơ nguyên bệnh thức·Hoả loại} ghi lại biểu hiện lâm sàng của chứng chinh xung “Tâm hung táo động, vị chi chinh xung” (心胸躁动,谓之怔忡) Tim đập vội vă, gọi là chinh xung. Thành Vô Kỷ ghi trong {Thương hàn minh lư luận quyển trung·Quư}: “Quư giả, tâm tùng. Trúc trúc dịch dịch nhiên động, chinh chinh tùng tùng, bất năng tự an giả thị hĩ.” (悸者,心松。是也,筑筑惕惕然动,怔怔松松,不能自安者是矣。) Hồi hộp, hoang mang, chính là lo sợ bối rối, không thể trấn tĩnh.
Chu Đan Khê (Nguyên) cho rằng kinh quư và chinh xung đều do huyết hư gây ra, c̣n cho rằng có quan hệ với đàm. {Đan Khê tâm pháp.Kinh quư Chinh xung}: “Kinh quư giả huyết hư, kinh quư hữu thời, dĩ Chu sa an thần hoàn. Chinh xung giả huyết hư, chinh xung vô thời, huyết thiểu giả đa; Hữu tư lự tiện động, thuộc hư; Thời tác thời chỉ, đàm nhân hoả động.”( 惊悸者血虚,惊悸有时,以朱砂安神丸。怔忡者血虚,怔忡无时,血少者多;有思虑便动,属虚;时作时止者,痰因火动。) Chứng hồi hộp do huyết hư yếu, có lúc hồi hộp (không phải luôn luôn), dùng Chu sa an thần hoàn. Chứng lo âu do huyết hư, luôn luôn lo âu, thường do huyết thiểu (thiếu máu); Tư lự là phát bệnh, thuộc hư chứng; Lúc phát tác lúc không, là do đàm hoả.
Ngu Đoàn (Minh) viết trong {Y học chính truyền·Chinh xung Kinh quư kiện vong chứng}: “Chinh xung giả, tâm trung dịch dịch nhiên động dao nhi bất đắc an tĩnh, vô thời nhi tác giả thị dă; Kinh quư giả, mặc nhiên nhi khiêu điệt kinh động, nhi hữu dục quyết chi trạng, hữu thời nhi tác giả thị dă.” (怔忡者,心中惕惕然动摇而不得安静,无时而作者是也;惊悸者,蓦然而跳跃惊动,而有欲厥之状,有时而作者是也。) Rối loạn lo âu là trong ḷng lo âu không yên tĩnh, lo âu không lúc nào yên; Kinh quư là đột nhiên tim đập mạnh như muốn ngất, có lúc phát tác có lúc không. {Cảnh Nhạc toàn thư·Chinh xung kinh khủng} cho rằng chứng chinh xung do làm việc vất vả gây ra. 
Vương Thanh Nhậm (Thanh) viết trong{Y lâm cải thác·Huyết phủ trục ứ thang sở trị chứng mục}: “Tâm khiêu mang, dụng quy tỳ, an thần đẳng phương bất hiệu, dụng thử phương bách phát bách trúng.” (心跳忙,用归脾、安神等方不效,用此方百发百中。) Tim đập vội vă cấp bách, dùng các phương thang an thần như thang Quy tỳ không hiệu quả, dùng phương này (huyết phủ trục ứ) trăm lần không sai. Bổ sung cách điều trị chứng tâm quư.
Đường Dung Xuyên {Huyết chứng luận·Chinh xung}: “Phàm tư lự quá độ cập thất huyết gia khứ huyết quá đa giả, năi hữu thử hư chứng, bĩ tắc đa hiệp đàm ứ, nghi tế biện chi” (凡思虑过度及失血家去血过多者,乃有此虚证,否则多挟痰瘀,宜细辨之). Phàm do tư lự quá độ và bệnh nhân xuất huyết lâu ngày, mất nhiều máu, chính là hư chứng, nếu không th́ thường kèm theo đàm ứ, nên phân biệt rơ.
 Tóm lại, theo các thư tịch của các y gia từ trước đến nay, chứng kinh quư chinh xung phần lớn do tố chất cơ thể hư nhược, t́nh chí nội thương, đến ngoại tà xâm nhập gây ra, vị trí bệnh tại tâm, biến hoá bệnh lư không ngoài hư thực. Hư là khí, huyết, âm, dương suy hư, dẫn đến tâm khí không đầy đủ, hoặc tâm không được nuôi dưỡng; Thực chứng thường do đàm ẩm đ́nh trệ bên trong, hoặc huyết mạch ứ trệ, làm cho tâm mạch không thông suốt, tâm thần không được nuôi dưỡng. Hư thực thường hỗ tương đan xen, trong hư chứng thường kèm theo đàm trọc, thuỷ ẩm hoặc huyết ứ; Trong thực chứng thường có biểu hiện tạng phủ suy yếu. Trong điều trị thường dùng các nguyên tắc điều trị chủ yếu như : Ích khí dưỡng huyết, tư âm ôn dương, hoá đàm điều ẩm, hoạt huyết hoá ứ, và thường phối ngẫu với các vị thuốc an thần.

Các y gia nhận định như thế nào về chứng Tâm tư? Hung tư c̣n gọi là tâm tư. Trong Tố vấn Cử thống luận viết: “Tâm tư giả mạch bất thông, phiền tắc tâm hạ cổ, bạo thượng khí nhi suyễn.” (心痹者,脉不通,烦则心下鼓,暴上气而喘。) Tâm tí, mạch không thông, bực bội khiến dưới tim phồng lên, khí đưa mạnh lên trên gây suyễn. Đời nhà Hán Trương Trọng Cảnh ghi trong Kim quỹ Yếu lược:”Hung tư hoăn cấp” (胸痹缓急。) Chứng hung tí nhanh chậm đồng thời chế định phương Qua lâu giới bạch bạch tửu thang. Đến nhà Tuỳ, Sào Nguyên Phương trong Chư bệnh nguyên hậu luận trong Hung tư hậu đề xuất cơ chế bệnh “Nhân tà bách vu dương khí, bất đắc tuyên sướng, ủng ứ sinh nhiệt” (因邪迫于阳气,不得宣畅,壅瘀生热”) Nguyên nhân bệnh tà bức bách dương khí, không được thông suốt, ứ trệ tràn lan sinh nhiệt. Tôn Tư Mạo đời Đường trong châm cứu trị liệu tổng kết được rất nhiều kinh nghiệm hữu hiệu như hung tư xuyên sang lưng là hàn, dùng huyệt Gian sử, hung tư tâm thống dùng huyệt Thiên tỉnh”.
Qua các thời Tống, Kim, Nguyên, nhận thức về bệnh này càng hoàn bị, phương pháp trị liệu ngày càng phong phú. Như {Thánh tế tổng lục.Tâm thống tổng luận} có Hung tư môn, cùng ghi lại: “Đau xương ngực giữa hai vú, nặng th́ sang lưng vai.” {Thái b́nh thánh huệ phương} Tại trị liệu có các phương : Các phương trị thốt tâm thống, trị hung tư chư phương, Các phương trị hung tư tâm bối thống, Các phương trị tâm bối triệt thống. Quan sát các phương thang có các đặc điểm rơ rệt như Ôn thông lư khí, hoạt huyết thông khiếu. Đồng thời trong “Các phương thang trị chứng tâm tí” chỉ ra: “Phu tư lự phiền đa tắc tổn tâm, tâm hư cố tà thừa chi, tà tích bất khứ, tắc thời hại ẩm thực, tâm trung như măn, uẩn uẩn như thống, thị vị chi tâm thống.” (夫思虑烦多则损心,心虚故邪乘之,邪积不去,则时害饮食,心中如满,蕴蕴而痛,是谓之心痛。) Tư lự bực bội nhiều th́ hại tim, tim hư yếu th́ bệnh tà thừa cơ xâm phạm, tà tích lại không hết, th́ hại về ẩm thực, trong bụng như đầy, tích trệ gây đau, gọi là tâm thống. Chỉ rơ nguyên nhân cơ chế bệnh là do tạng phủ hư yếu, khí phong tà lạnh nóng xâm phạm, chính khí không đầy đủ, tà khí thiên thắng gây bệnh.

Đến thời kỳ nhà Minh và nhà Thanh những luận thuật về chứng hung tư càng tinh tế hơn, có sự phân biệt rơ rệt giữa chứng hung tư và chứng vị quản thống, giữa chứng quyết tâm thống và chân tâm thống. {Y tôn tất độc.Tâm phúc chư thống}: “Vị quản tại tâm chi hạ, hung thống tại tâm chi thượng dă…..” (胃脘在心之下,胸痛在心之上也……。) Vị quản ở dưới tim, hung thống ở trên tim{Lâm chứng chỉ nam y án. Tâm thống} Từ Linh Thai chỉ ra: “Tâm thống, vị quản thống xác thị nhị bệnh, nhiên tâm thống tuyệt thiểu, nhi vị thống cực đa” (心痛、胃脘痛确是二病,然心痛绝少,而胃痛极多……)Tâm thống và Vị quản thống chính xác là hai bệnh, chứng tâm thống th́ rất ít gặp, vị quản thống th́ rất nhiều…”Đến Lư Mộc Diên đời Minh th́ sự phân biệt hai bệnh càng tường tận hơn: “Chân tâm thống, nhân nội ngoại tà phạm tâm, nhất nhật tức tử; Quyết tâm thống nhân nội ngoại tà hoặc tha tạng tà phạm tâm bào chi lạc” (真心痛,因内外邪犯心君,一曰即死;厥心痛,因内外邪犯心之包络,或它脏邪犯心包支络) Đau tim thực sự do nguyên nhân bệnh từ bên trong hay bên ngoài phạm vào tâm, một ngày th́ chết; Quyết tâm thống, do bệnh bên trong hay bên ngoài phạm vào tâm bào lạc, hoặc bệnh từ tạng khác phạm vào tâm bào chi lạc.
Những năm gần đây, những nghiên cứu về chứng hung tư ngày càng sâu rộng hơn. Cho rằng vị trí bệnh của chứng hung tư tại tâm hung (tim và lồng ngực), phát bệnh có liên quan đến các tạng như tâm phế can thận tỳ, có thể do tâm khí, tâm dương, tâm huyết, tâm âm không đầy đủ, hoặc trên cơ sở can thận tỳ mất điều hoà kèm theo các bệnh biến như đàm trọc, huyết ứ, khí trệ, hàn ngưng, đều thuộc chứng bản hư tiêu thực. Trên phương diện trị liệu không ngoài hai chữ “Bổ” và “Thông”, bổ tạng phủ khí huyết âm dương bất túc, thông huyết mạch, hoạt huyết hoá ứ, khai thông trừ đàm. 
Nhận thức của đông y về chứng Huyễn vựng như thế nào?
Bệnh nhân tâm luật thất thường nếu xuất hiện pḥng thất truyền đạo trở ngại hoặc khoái tốc tính pḥng chiến (rung tâm pḥng nhanh), tâm động quá độ trên thất tâm luật thất thường, có thể xuất hiện huyễn vựng, mà dẫn đến vựng quyết. Mà trung y đối với nguyên nhân bệnh huyễn vựng có thể tóm lược như sau: 
1/Tổn thương t́nh chí: Giận dữ quá độ, dẫn đến can khí uất kết, hoá hoả thượng nghịch, hoặc tổn thương thận âm dẫn đến âm hư dương kháng, ưu tư tổn thương tạng tỳ, khí huyết thiếu nguồn (tỳ hoá sinh khí huyết), lâu ngày thanh khiếu không được nuôi dưỡng, đều có thể phát sinh huyễn vựng; Đồng thời khí uất hoá hoả sinh đàm, che lấp thanh khiếu cũng có thể gây chứng huyễn vựng. 
2/ Tổn thương do ăn uống: No đói thất thường, ăn quá nhiều thực phẩm lạnh, khí trung tiêu bị tổn thương, nguồn sinh hoá khí huyết kém, thanh khiếu thất dưỡng phát sinh huyễn vựng. Nếu công năng vận hoá của tỳ vị thất thường, tân dịch tụ lại thành đàm, che lấp thanh khiếu gây huyễn vựng. Khi phân biện tổn thương do ẩm thực, cần chú ư đến nhân tố thể chất, thông thường nếu người gầy và có sắc vàng thường thuộc âm huyết hư, mập và trắng thường thuộc khí hư đàm thấp.   
3/ Mất máu: Ngoại thương, thổ nục (chảy máu mũi, thổ huyết), rong kinh, đại tiện ra máu, hoặc mới sinh xuất huyết quá nhiều, đều có thể trực tiếp gây ra khí huyết hư nhược dẫn đến huyễn vựng.
4/ Mệt mỏi quá độ: Mệt mỏi quá độ hoặc bất thời ngự thần (không biết tiết chế), hoặc dâm dục quá độ, không tiết dục, tổn thương tinh thần, tinh khí không đủ, tuỷ hải trống rỗng mà gây huyễn vựng.
 Đông y luận thuật cơ chế bệnh huyễn vựng như thế nào?
Nguyên nhân chứng huyễn vựng của chứng tâm luật thất thường được tóm tắt như sau:
1/  Can dương thượng kháng: Can là tạng phong mộc, trong có tướng hoả, thể thuộc âm nhưng dụng thuộc dương, chủ thăng chủ động, tạng can chủ sơ tiết, được thận tinh nuôi dưỡng. Những người có tố chất dương thịnh, can dương thiên kháng, kháng cực hoá hoả sinh phong, phong thăng hoả động, nhiễu loạn thanh khiếu ở trên, phát thành chứng huyễn vựng; Nếu ưu uất giận dữ kéo dài, can khí uất kết, uất lâu ngày hoá hoả, làm cho can âm tổn háo tạo thành âm hư dương kháng, phong dương thăng động, thượng nhiễu thanh khiếu, gây chứng huyễn vựng; Nếu thận âm hư hoặc phóng túng t́nh dục tổn thương tinh khí, can không được nuôi dưỡng, làm cho can âm không đủ, can dương thượng kháng, phát chứng huyễn vựng, t́nh trạng này gọi là “Thuỷ bất hàm mộc” thuỷ không khống chế được hoả của mộc.
2/Khí huyết suy hư: Bệnh lâu ngày, háo thương khí huyết, hoặc sau khi mất máu, hư tổn không phục hồi, hoặc tư lự mệt mỏi, làm cho tỳ vị hư nhược, nguồn sinh hoá khí huyết kém, dẫn đến khí huyết cùng hư tổn, khí hư làm cho thanh dương không phát triển, huyết hư nên năo không được nuôi dưỡng, đều có thể gây chứng huyễn vựng. 
3/ Thận tinh không đủ: Thận là căn bản thiên tiên, trữ tàng tinh sinh tuỷ, mà tuỷ tụ lại thành năo. V́ thế năo là tuỷ hải (bể chứa tuỷ) và nhờ thận tinh nuôi dưỡng. Nếu tiên thiên bất túc, bẩm phú hư nhược, mà hậu thiên bồi dưỡng kém, thận tinh không sung túc; Hoặc tuổi già thận suy, tinh hư tuỷ giảm; Hoặc bệnh lâu ngày thận bị tổn thương, hoặc túng dục quá độ, thận không bế tàng, làm cho thận tinh suy háo, bất năng sinh tuỷ sung năo, năo không được nuôi dưỡng, phát sinh huyễn vựng. Thận tinh không đủ, không chỉ trực tiếp dẫn đến tuỷ hải bất túc mà sinh huyễn vựng, mà c̣n làm cho khí huyết hư nhược mà sinh huyễn vựng, v́ tinh và huyết có cùng một nguồn, mà lại là khí hải (bể của khí), tinh hư tất nhiên dẫn đến khí huyết không đủ.
4/Đàm thấp trung trở: Tạng tỳ chủ vận hoá thuỷ cốc, lại chính là nguồn sinh đàm. Nếu ăn nhiều thực phẩm béo ngọt và rượu, no đói thất thường, hoặc tư lự mệt mỏi, tạng tỳ bị tổn thương, tỳ không kiện vận, thuỷ cốc không hoá thành vật chất tinh vi, tụ thấp lại thành đàm, đàm trọc trung trở, thanh dương không thăng, trọc âm không giáng, che lấp thanh khiếu, phát thành huyễn vựng. Nếu đàm trọc uất mà hoá hoả, đàm hoả thượng phạm thanh khiếu, cũng làm cho chứng huyễn vựng tăng nặng. 
 Nhận thức của Đông y đối với nguyên nhân bệnh hung tư như thế nào? 
1/ Hàn tà nội xâm: Tố chất dương suy, dương của lồng ngực không mạnh mẽ, âm hàn thừa hư xâm nhập, hàn ngưng khí trệ, huyết hành không thư sướng, thành chứng hung tư. 
2/ T́nh chí mất điều hoà: Ưu tư hại tỳ, tỳ hư nên khí kết, vận hoá kém, tân dịch không thâu phát bố tán mà tụ lại thành đàm; Uất nộ hại can, can không khai thông điều tiết, can uất khí trệ, uất quá hoá hoả, thiêu đốt tân dịch thành đàm, khí trệ hoặc đàm trở đều gây trở ngại khí huyết, khí huyết ứ trệ hoặc đàm ứ giao trở làm tâm mạch tắc nghẽn, phát sinh chứng đau ngực.
3/ Ăn uống không thích đáng : Không tiết độ, ăn nhiều thực phẩm béo ngọt, hoặc nghiện rượu, tổn hại tỳ vị, vận hoá kém, thấp tụ thành đàm, đàm gây trở ngại mạch lạc, tâm mạch tắc nghẽn, thành chứng đau ngực.
4/Tuổi già thân thể hư nhược: Tuổi ngoài 50, thận khí suy dần. Nếu thận dương hư suy không cổ động được dương của ngũ tạng, th́ tâm khí và tâm dương suy yếu, huyết mạch không được ôn dưỡng nên dương của lồng ngực không thông suốt, phát chứng đau ngực; Nếu thận âm suy không nuôi dưỡng được âm của ngũ tạng, có thể làm cho tâm âm bên trong khô háo, khi tâm âm suy yếu khiến tâm hoả thiên vượng, thiêu đốt tân dịch thành đàm, đàm nhiệt ứ trệ tâm mạch, phát chứng đau ngực. 
 Phân tích của đông y đối với cơ chế bệnh của hung tư (đau ngực) như thế nào?
Có thể tóm tắt trên hai phương diện hư và thực: Hư là tâm tỳ can thận và khí huyết âm dương suy hư, cơ năng mất điều hoà; Thực là hàn ngưng tụ, khí trệ, huyết ứ, đàm thấp cản trở. Trong quá tŕnh h́nh thành và phát triển của bệnh, thường thấy hư thực đan xen nhau. Do bệnh hay gặp ở tuổi trung lăo niên là lúc cơ thể đang dần suy thoái, nên thường cho rằng bệnh cơ chủ yếu là bản hư tiêu thực. Mà nguyên nhân và cơ chế bệnh có thể đồng thời tồn tại, luân phiên gây bệnh, t́nh trạng bệnh phát triển thêm một bước, có thể gặp bệnh biến như sau:
(1) Ứ huyết nghẽn trệ tâm mạch→Lồng ngực đột nhiên rất đau (chân tâm thống).
(2) Tâm dương bị cản trở, tâm khí không đủ, cổ động vô lực→tim hồi hộp, mạch kết đại.
(3) Dương của Tâm thận suy, thuỷ tà tràn lên, ảnh hưởng tâm phế→Ho suyễn, tay chân phù thũng (thuỷ thũng). 
 Nhận thức của đông y đối với nguyên nhân bệnh mất ngủ như thế nào?
Bệnh nhân rối loạn nhịp tim luôn luôn có chứng trạng mất ngủ (là khó ngủ hoặc dễ thức giấc). Trung y đối với nguyên nhân bệnh mất ngủ có thể tóm lược như sau: Chủ yếu do tổn thương t́nh chí, tư lự mỏi mệt thái quá, hoặc gặp chuyện sơ hăi quá độ, cũng có nguyên nhân do bẩm phú không đủ, pḥng dục quá độ, bệnh lâu ngày, hoặc tuổi già thân thể hư nhược gây ra. 
1/ T́nh chí không toại nguyện, can khí uất kết, uất nên hoá hoả, tà hoả nhiễu động tâm thần, tâm thần không an nên mất ngủ. Hoặc tâm hoả mạnh, khi có ưu uất nhẹ, tâm hoả liền nhiễu động tinh thần mà mất ngủ.
2/ Tâm đảm hư yếu khiếp sợ hoặc gặp chuyện sợ hăi, thần hồn bất an, dễ sợ hăi, làm cho mất ngủ hoặc ngủ không ngon. 
3/ Suy nghĩ mệt mỏi quá độ, tổn thương hai tạng tâm và tỳ, tâm bị tổn thương nên huyết tổn háo, tinh thần không ổn định, tỳ bị tổn thương nên sinh hoá kém, v́ thế doanh huyết không đủ để nuôi dưỡng tâm. Ngoài ra, bệnh lâu ngày huyết hư, sản hậu thất huyết, người già huyết kém, cũng làm cho tâm huyết không đủ, tâm không được nuôi dưỡng, dẫn đến tâm thần bất an mà mất ngủ. 
4/ Tư chất không tốt, pḥng dục quá độ hoặc bệnh lâu ngày, thận âm tiêu háo tổn thương, không thể đưa lên trên nuôi tâm, thuỷ bất tế hoả (thuỷ hoả không giao tế), tâm hoả độc kháng; Hoặc ngũ chí quá cực (nộ, hỉ, bi, tư, khủng) quá độ nên hoá hoả, tâm hoả mạnh không thể hạ giao với thận, tâm thận bất giao, hoặc can thận âm hư, can dương thiên thịnh, tướng hoả thượng kháng, tâm hoả thịnh nên thần động, thận âm hư nên thần chí tổn thương, tâm thận thất giao mà thần chí bất an, do đó mất ngủ.  
5/ Ăn uống không tiết độ: Tỳ vị thụ thương, hoặc tích thành đàm nhiệt, ủng trệ cản trở bên trong, vị khí không điều hoà, dương khí vượt ra ngoài nên ngủ không yên. 
 Đông y phân tích như thế nào về bệnh cơ của chứng mất ngủ?
Nguyên nhân hội chứng bệnh mất ngủ của tâm luật thất thường như đă tŕnh bày ở phần trên, mà nhận thức bệnh cơ chủ yếu chính là: Do khí huyết âm dương mất điều hoà, công năng tạng phủ rối loạn làm cho tâm thần nhiễu loạn, thần chí bất an nên ngủ không yên. 
Nhận thức của đông y đối với nguyên nhân bệnh của chứng quyết là ǵ?
Có thể quy kết như sau: 
1/ Khí cơ thất điều: Biến động t́nh chí rất dễ ảnh hưởng sự vận hành của khí cơ, nhẹ th́ tạo thành khí uất, nặng th́ khí nghịch, dẫn đến khí quyết. Biến động t́nh chí chủ yếu là giận dữ sợ hăi hoảng hốt. Thông thường giận dữ kinh hăi thuộc thực, kinh khủng sợ sệt thuộc hư chứng, điều này tương quan mật thiết với thể chất của mỗi người. Người khí thịnh, gặp chuyện giận dữ kinh hăi, “Nộ tắc khí thượng”, “Kinh tắc khí loạn”, khí cơ thượng xung nghịch loạn, thanh khiếu ủng tắc nhi hôn đảo (ngă ra bất tỉnh); Người nguyên khí hư nhược, gặp chuyện sợ sệt, “Khủng tắc khí hạ”, thanh dương bất thăng, thần minh thất dưỡng nhi hôn phó (ngă ra hôn mê).
2/ Huyết vận hành thất thường: Can trữ tàng huyết, công năng sinh lư điều tiết lượng huyết của gan bị ảnh hưởng có thể phát sinh huyết quyết (cũng gọi là uất quyết hôn mê do ưu uất). Bệnh nhân tố chất cơ thể thiên về can dương mạnh (thiên kháng), lại giận dữ quá độ nên gan bị tổn hại, công năng trữ tàng huyết dịch của gan suy yếu dần, huyết dịch tuỳ theo khí cơ trong cơn giận dữ mà phát sinh quyết thuộc thực chứng.
3/ Đàm trở khí nghịch: Tố chất đàm thịnh, đột nhiên giận dữ kinh hăi, khí thượng xung nghịch loạn, đàm theo khí thăng phát sinh đàm quyết. Trên lâm sàng bệnh nhân tố chất tỳ khí hư, nên có nhiều đàm thấp, có bệnh nhân v́ ăn quá nhiều thực phẩm béo ngọt gây nội hoả khá mạnh, nên chủ yếu là đàm hoả. 
4/ Thực phẩm đ́nh trệ trong dạ dày: Ăn uống quá nhiều hoặc quá no, làm cho dạ dày bị lấp đầy, khí cơ bị trở ngại, vị không hoà giáng, nên gây chứng thực quyết. Tuy hay phát ở trẻ em, nhưng cũng có thể phát sinh ở người lớn. Nếu uống quá nhiều rượu, hoặc gặp khi giận dữ, hoặc say rượu nhập pḥng làm cho tửu khí và cốc khí giao nhau, nghịch và đi ngược lên, thanh khiếu và ngực bị tắc nghẽn, mất sự tỉnh táo. 
5/Thử tà (nắng nóng) xâm phạm tim: Nắng nóng gây tổn thương tân dịch háo khí, nhiệt uất khí cơ, có thể trực tiếp xâm phạm tâm thần, nhẹ th́ phiền muộn, nặng th́ thần hôn (hôn mê). Nếu tân dịch bị tổn thương nghiêm trọng, cũng có thể dẫn động can phong; Khí háo thương quá độ, có thể xuất hiện hội chứng tân dịch và khí muốn thoát. Nếu thử tà quá mạnh, tà nhiệt nung nấu bức bách vào trong, xuất đại hăn (xuất quá nhiều mồ hôi), tân dịch tiết ra ngoài, khí theo mồ hôi thoát ra nên đột nhiên hôn quyết (hôn mê) chân tay lạnh, mà cơ chế bệnh là dương khí ngoại thoát (thoát ra ngoài).
 Đông y phân tích như thế nào về bệnh cơ của chứng quyết?
Tâm luật thất thường dẫn đến chứng quyết (hôn mê), đông y cho rằng cơ chế phát bệnh là: Chính là khí cơ đột nhiên nghịch loạn, thăng giáng không b́nh thường, khí huyết vận hành thất thường. Nhưng khí cơ nghịch loạn lại phân thành hư thực, thông thường khí thịnh hữu dư, khí nghịch thượng xung, huyết theo khí nghịch, hoặc kèm theo đàm, thực, ủng trệ ở trên, làm cho thanh khiếu tạm đóng lại, phát sinh chứng quyết là thực chứng; Nếu khí hư không đầy đủ, thanh dương không thăng, khí hăm ở dưới, huyết không đạt lên trên, khí huyết nhất thời không thuận hợp, dẫn đến sự thông minh linh hoạt không được nuôi dưỡng, tứ chi không ấm áp mà phát thành chứng quyết và là hư chứng. 
        
Tâm luật thất thường có quan hệ như thế nào với chứng tâm quư, chinh xung, làm thế nào để phân biệt tâm quư và chinh xung?
Bệnh nhân tâm luật thất thường thường có cảm giác tâm quư (tim hồi hộp). Đông y gọi là tâm quư, bao gồm kinh quư và chinh xung, chính là một loại bệnh chứng mà bn có cảm giác tim đập nhanh, kinh hoảng bất an, nặng th́ không thể tự chủ, hoặc mạch không đều. Trên lâm sàng thường phát từng trận, mỗi khi tinh thần căng thẳng hoặc làm việc quá độ th́ bệnh phát tác. Thường xuất hiện đồng thời với các chứng trạng như : Hung tư (ngực đau bế tắc), mất ngủ, kiện vong (hay quên), huyễn vựng, ù tai. 
Kinh quư (hồi hộp)và chinh xung(lo lắng không có nguyên nhân) tuy cùng thuộc vào tâm, nhưng cả hai dựa theo nguyên nhân, chứng trạng, t́nh trạng nặng nhẹ mà có sự khác biệt. Xét theo nguyên nhân bệnh, kinh quư phát tác do các nguyên nhân như căng thẳng, sợ hăi, làm việc quá độ; Mà chứng chinh xung là do tâm huyết không đầy đủ gây ra. Hơn nữa, chứng kinh quư lâu ngày cũng có thể phát triển thành chứng chinh xung.  

 Mạch xúc là ǵ, đại biểu như thế nào cho chứng tâm luật thất thường nào?
Mạch xúc là mạch tượng hàng đầu của đông y. {Thương hàn luận. B́nh mạch pháp} cho rằng: “Mạch lai sác, thời nhất chỉ phục lai giả, danh viết xúc mạch” (脉来数,时一止复来者,名曰促脉。)Mạch đập nhanh, có lúc ngừng một lần rồi đập trở lại, gọi là mạch xúc{Tần Hồ Mạch học} cho rằng: “Xúc mạch, lai khứ sác, thời nhất chỉ phục lai, như quyết chi thú (nhanh mà vấp), từ tật bất thường (chậm nhanh bất thường)” (促脉,来去数,时一止复来,如蹶之趣,徐疾不常。) Mạch xúc, mạch nhanh, có lúc ngừng một lần, như bị vấp, nhanh chậm không đều. Đông y truyền thống cho rằng, mạch xúc là mạch nhanh, có lúc ngừng một lần, không đều. Cũng chính là, đặc điểm của mạch xúc là mạch có tần suất nhanh, thuộc phạm vi mạch sác (khoảng 90 lần/phút), trong quá tŕnh đập có lúc ngừng lại (đ́nh đốn), nhưng ngừng lại không có quy luật, sau khi ngừng lại tiếp tục đập. Như đập 3 lần ngừng một lần, rồi đập 8 lần lại ngừng một lần, đ́nh đốn (là ngưng đập không có quy luật).  
 Đông y cho rằng, xúc mạch thường chủ dương thịnh thực nhiệt, khí huyết đàm ẩm túc thực đ́nh trệ, thường gặp ở giai đoạn dương nhiệt kháng thịnh. Tuy nhiên, xúc mạch cũng chủ về chân nguyên suy bại. Về mặt lâm sàng, nó thường gặp hơn trong các tổn thương ở tim. Theo các biểu hiện của xung kích thích th́ đa số là rối loạn nhịp tim như rung nhĩ nhanh, cuồng nhĩ không đều, nhịp nhĩ sớm, nhịp nút sớm, nhịp thất sớm trong y học hiện đại.

Mạch tŕ là ǵ, mạch tŕ đại biểu cho dạng tâm luật thất thường nào?
Mạch tŕ là một loại mạch tượng của đông y. {Mạch kinh . Quyển nhất} cho rằng: “Tŕ mạch, hô hấp tam chí, lai khứ cực tŕ.” (迟脉,呼吸三至,来去极迟。): Mạch tŕ , mỗi lần hô hấp 3 lần đập, mạch qua lại rất chậm.{Mạch quyết hối thiên.Quyển ba}viết: “Tŕ mạch thuộc âm, tượng vi bất cập, văng lai tŕ mạn, tam chí nhất tức.”( 迟脉属阴,象为不及;往来迟慢,三至一息。): Mạch tŕ thuộc âm, h́nh tượng mạch khiếm khuyết (bất cập); mạch đập chậm, một lần hô hấp mạch đập 3 lần. Thời xưa không có đồng hồ, các y gia cổ đại khi thiết mạch, đều dùng hô hấp đều đặn của chính ḿnh để trắc lượng số mạch đập của bệnh nhân, một lần hô hấp gọi là nhất tức. Mạch của người b́nh thường một tức là 4 lần đập, vào khoảng 70 lần một phút. Mạch tŕ một hô hấp 3 lần đập, tương đương khoảng 50 lần trong 1 phút. Nhưng theo truyền thống đông y luôn cho rằng nếu mạch không đủ 60 lần/phút th́ thuộc mạch tŕ. Đông y cho rằng mạch tŕ chủ lạnh, thuộc dương khí không đủ. Y gia cổ đại mô tả mạch tŕ một hô hấp khoảng ba lần đập trở xuống, tức vào khoảng 50 lần/phút trở xuống. Theo nhịp mạch của một nhịp thở, ba nhịp hoặc hai nhịp, nó có thể thuộc về nhịp tim chậm trong y học hiện đại (dưới 50 nhịp / phút), một số hội chứng xoang bị bệnh (dưới 50 nhịp / phút), và một số dẫn truyền nhĩ thất cấp cao bị tắc nghẽn.

Mạch kết là ǵ, mạch kết đại biểu cho dạng tâm luật thất thường nào?
Mạch kết là mạch tượng hàng đầu của đông y. Thương hàn luận. B́nh mạch pháp: “ Mạch hoăn lai, thời nhất chỉ phục lai giả, danh viết kết mạch” (脉缓来,时一止复来者,名曰结脉。) Mạch đập chậm, có lúc ngừng một nhịp rồi lại đập, gọi là mạch kết. Mạch quyết san ngộ cho rằng: “Mạch hoăn lai, thời nhất chỉ phục lai giả, vô thường số…..viết kết.” (脉缓来,时一止复来,无常数。……曰结。): Mạch đập chậm, có lúc ngừng một nhịp rồi lại đập, ngừng không quy luật…..gọi là mạch kết. Đông y truyền thống cho rằng, mạch đập chậm, có lúc ngưng một lần (đột nhiên đ́nh đốn một lần), ngưng vô định số, hoặc đập 3 lần ngưng một lần, tiếp tục đập 5 lần ngưng một lần, ngưng không quy luật, là mạch kết. Thông thường, mạch nhất tức tứ chí (khoảng 70 lần/phút), mạch hoà hoăn, không nhanh không chậm là mạch hoăn, trên cơ sở mạch hoăn đột nhiên ngưng lại, không quy luật, là đặc trưng của mạch kết.
Đông y cho rằng,mạch kết hữu lực là âm hàn quá thịnh, có thể thấy mạch kết trong các trường hợp như khí kết, huyết ứ, hàn đàm, ẩm ngưng, trưng hà tích tụ, thất t́nh khí uất…Mạch kết vô lực chỉ chân khí suy nhược, khí huyết hư suy, hư lao cửu bệnh (bệnh lâu ngày). Theo biểu hiện của mạch, nhịp nút có thể thuộc về nhịp sớm thất, nhịp sớm nhĩ, cuồng nhĩ, rung nhĩ, hoặc các rối loạn nhịp bất thường như nhịp đôi, nhịp ba, nhịp thoát, … trong y học hiện đại.

Mạch đại là ǵ, mạch đại đại biểu cho loại tâm luật thất thường nào?
Là mạch tượng hàng đầu của đông y. Mạch quyết can ngộ cho rằng: “Đại mạch chi chỉ, kỳ chỉ hữu thường số nhi bất thắc” (代脉之止,其止有常数而不忒。)Mạch đại ngưng theo số đập nhất định không đổi.” Hoạt nhân thư quyển số 2 cho rằng: “ Văng lai hoăn động nhi trung chỉ, bất năng tự hoàn, nhân nhi phục động, danh viết đại dă.” (往来缓动而中止,不能自还,因而复动,名曰代也。) Mạch đập chậm răi, đang đập th́ ngưng lại, mạch không thể tự đập lại, v́ thế mạch đập lại gọi là mạch đại (đổi). Tần hồ mạch học: “Đại mạch động nhi trung chỉ, bất năng tự hoàn, nhân nhi phục động. Mạch chí hoàn nhập xích, lương cửu phương lai.” (代脉,动而中止,不能自还,因而复动。脉至还入尺,良久方来。). Đông y truyền thống trung y cho rằng, mạch đại đang đập th́ ngưng lại một lần, ngưng có định số, lương cửu phương lai*. Cũng lại nói rằng, mạch đại có đặc điểm là ngưng sau một số lần đập nhất định, mỗi lần ngưng có tính quy luật nhất định, mỗi lần ngưng thời gian khá dài (so sánh tương đối với mạch kết). 
Đông y cho rằng mạch đại (đổi) chủ yếu chính là dương khí suy vi, khí huyết hư tổn, mạch khí không liền lạc làm cho mạch ngưng lại.

Những điểm biện chứng chính yếu của tâm khí hư rối loạn nhịp tim là ǵ?

Những điểm biện chứng chính yếu của tâm khí hư tổn rối loạn nhịp tim là ǵ?
1/ Có các triệu chứng của hồi hộp tâm khí hư, hồi hộp tăng nặng khi mệt mỏi.
2/ Sắc mặt trắng, yếu sức.
3/ Chất lưỡi nhạt, lưỡi to mềm, mạch hư.
4/ Điện tâm đồ biến đổi theo rối loạn nhịp tim.

Những điểm biện chứng chính yếu của tâm dương bất chấn (không đủ mạnh) rối loạn nhịp tim là ǵ?

Những điểm biện chứng chính yếu của tâm dương bất chấn (không đủ mạnh) rối loạn nhịp tim là:
1/ Có chứng trạng chủ yếu của tâm dương bất chấn là hồi hộp thở ngắn.
2/ Sợ lạnh chân tay lạnh, sắc mặt trắng xanh nhợt nhạt, đại tiện bất thực ( Phân không khuôn, không b́nh thường lỏng, nát), nước tiểu trong và nhiều.
3/ Chất lưỡi nhạt hoặc tím ảm đạm, mạch vi nhược hoặc kết đại.
4/ Điện tâm đồ biến đổi theo rối loạn nhịp tim.

Những điểm biện chứng chính yếu của tâm âm bất túc rối loạn nhịp tim là ǵ?
Những điểm biện chứng chính yếu của tâm âm bất túc rối loạn nhịp tim là:
1/ Có đủ các chứng trạng của tâm âm bất túc như hồi hộp, sốt ruột, mất ngủ…
2/ Sốt nhẹ, ngũ tâm phiền nóng (ngũ tâm: Ḷng bàn tay bàn chân và ngực), miệng khô.
3/Chất lưỡi hồng và ít tân dịch, mạch tế sác.
4/ Điện tâm đồ biến đổi theo rối loạn nhịp tim.

Những điểm biện chứng chính yếu của tâm huyết không đầy đủ rối loạn nhịp tim là ǵ?
Những điểm biện chứng chính yếu của tâm huyết bất túc rối loạn nhịp tim là:
1/ Có đủ các chứng trạng chủ yếu của tâm huyết không đầy đủ như hồi hộp, chinh xung(lo lắng không có nguyên nhân, (rối loạn âu lo))
2/ Đầu óc hôn ám, hoa mắt, sắc mặt kém tươi, môi, móng tay chân nhợt nhạt.
3/ Chất lưỡi nhạt, mạch tế nhược.
4/ Điện tâm đồ biến đổi theo rối loạn nhịp tim.

Những điểm biện chứng chính yếu của tâm tỳ lưỡng hư rối loạn nhịp tim là ǵ?
Những điểm biện chứng chính yếu của tâm tỳ lưỡng hư rối loạn nhịp tim là có đủ hai nhóm hội chứng tâm hư và tỳ hư.
1/ Có chứng trạng tâm hư như hồi hộp hay quên, mất ngủ hay mơ.
2/ Có chứng trạng tỳ hư như ăn không ngon, bụng trướng phân lỏng nát, tinh thần uể oải mỏi mệt.
3/ Ở phụ nữ sẽ xuất hiện lượng kinh nguyệt ít, sắc kinh nhạt.
4/ Chất lưỡi nhạt mềm, mạch tế nhược.
5/ Điện tâm đồ biến đổi theo rối loạn nhịp tim.

Những điểm biện chứng chính yếu của rối loạn nhịp tim do thận tinh không đủ là ǵ?
Những điểm biện chứng chính yếu của rối loạn nhịp tim do thận tinh không đủ, căn cứ vào các đặc điểm như tiên thiên bẩm thụ kém và tổn hại ở hậu thiên, biện chứng chia thành 2 loại:
1/ Tiên thiên không đầy đủ, phát dục không tốt (thiểu năng bẩm sinh, kém phát triển)
① Khí huyết của mẹ không tốt, thai nhi bẩm sinh kém.
② Sau khi sinh ra chậm phát triển.
③ Thường xuyên khó thở, hồi hộp, tức ngực, môi tím tái, tăng cảm giác hồi hộp và khó thở sau khi vận động.
④ Mạch kết đại.
⑤ Khám bệnh theo y học hiện đại khẳng định thông liên nhĩ hoặc thông liên thất ở tim.
⑥ Điện tâm đồ biến đổi theo rối loạn nhịp tim.
2/ Tổn thương do sinh hoạt bừa băi tuỳ tiện, thận tinh suy kiệt:
① Thường gặp ở người trưởng thành
② Sắc dục quá độ, có dung mạo của người già trước tuổi (vị lăo tiên suy), hoặc bệnh lâu ngày, thận hư tổn.
③ Lưng ê ẩm, ù tai, liệt dương di tinh, rụng tóc răng lung lay, tiếp theo là hồi hộp lo âu.
④ Mạch hư tế vô lực.
⑤ Điện tâm đồ biến đổi theo rối loạn nhịp tim.

Những điểm biện chứng chính yếu của rối loạn nhịp tim do can thận âm hư là ǵ?
Những điểm biện chứng chính yếu của rối loạn nhịp tim do can thận âm hư là:
1/ Chứng này thường gặp ở tuổi trung lăo niên.
2/ Có chứng trạng chủ yếu của can thận âm hư hồi hộp phiền muộn.
3/ Vựng đầu ù tai, eo gối đau mỏi, ngũ tâm phiền nóng, họng khô, cạnh sườn đau rát.
4/ Lưỡi hồng ít rêu, mạch tế huyền.
5/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Những điểm biện chứng chính yếu của rối loạn nhịp tim do hoảng sợ là ǵ?
Những điểm biện chứng chính yếu của rối loạn nhịp tim do hoảng sợ là :
1/ Có tiền sử gặp chuyện kinh hăi hoảng sợ.
2/ Hồi hộp không yên, hay sợ hăi, cảm xúc không ổn định.
3/ Chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tiểu sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Các điểm biện chứng chính yếu của chứng tâm hư đảm khiếp gây rối loạn nhịp tim là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu của chứng tâm hư đảm khiếp gây rối loạn nhịp tim là:
1/ Đột nhiên gặp chuyện sợ hăi hoặc bị bức bách mạo hiểm, có cảm giác hoảng sợ.
2/ Hồi hộp, hay kinh hăi, sợ âm thanh, gặp chuyện ǵ cũng hồi hộp.
3/ Lưỡi b́nh thường, rêu lưỡi mỏng, mạch tế hơi sác
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Các điểm biện chứng chính yếu của tâm huyết ứ trở gây rối loạn nhịp tim là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu của tâm huyết ứ trở gây rối loạn nhịp tim là:
1/ Tâm huyết ứ trở thường do tâm khí hư hoặc tâm dương hư, huyết không có lực vận chuyển mà gây ứ.
2/Hồi hộp, lồng ngực phiền muộn, có lúc đau nhói, đau lan sang vai lưng, môi móng xanh tím.
3/ Chất lưỡi ảm đạm, xanh tím hoặc thấy ứ điểm, mạch sáp hoặc kết đại.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Biện chứng chính yếu của đàm hoả gây rối loạn nhịp tim là ǵ?
Biện chứng chính yếu của đàm hoả gây rối loạn nhịp tim là:
1/ Đàm hoả quấy nhiễu tâm thường do những cảm xúc ưu uất hoá hoả gây ra.
2/ Hồi hộp, vội vă, mất ngủ, miệng lở loét hoặc thổ ra máu, chảy máu mũi.
3/ Đầu lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.
4/Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Các điểm biện chứng chính yếu của thuỷ khí xâm phạm tạng tâm gây rối loạn nhịp tim là ǵ?

Các điểm biện chứng chính yếu của thuỷ khí xâm phạm tạng tâm gây rối loạn nhịp tim là:
1/ Thuỷ khí xâm phạm tạng tâm thường do tâm dương hư yếu, thuỷ ẩm tràn lên gây bệnh.
2/ Có các chứng trạng chủ yếu của thuỷ khí xâm phạm tạng tâm như hồi hộp, lồng ngực phiền muộn.
3/ Phù thũng, ho, khạc đàm trắng lỏng.
4/ Khi thận dương hư th́ có thể thấy tiểu tiện không thuận lợi, cơ gân tự máy động.
5/ Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng nhờn, mạch trầm huyền.
6/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Các điểm biện chứng chính yếu của hàn lănh ngưng tụ xâm phạm tạng tâm gây rối loạn nhịp tim là ǵ?

Các điểm biện chứng chính yếu của hàn lănh ngưng tụ xâm phạm tạng tâm gây rối loạn nhịp tim là:
1/ Đột nhiên đau vùng ngực trước tim, đau từ ngực sang lưng và từ lưng sang ngực.
2/ Thân thể lạnh, sợ lạnh, xuất mồ hôi lạnh, hồi hộp thở ngắn.
3/ Khi thời tiết lạnh dễ phát bệnh.
4/ Rêu lưỡi trắng, mạch khẩn.
5/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Các điểm biện chứng chính yếu của chứng nước đ́nh trệ ở ngực sườn gây rối loạn nhịp tim là ǵ?

Các điểm biện chứng chính yếu của chứng nước (ẩm) đ́nh trệ ở ngực sườn gây rối loạn nhịp tim là:
1/ Ngực sườn trướng đầy, hơi thở ngắn vội, ho gây đau ngực sườn.
2/ Trường hợp nghiêm trọng xuất hiện hồi hộp, ho suyễn không thể nằm.
3/ Rêu lưỡi trắng, mạch trầm huyền hoặc kết đại.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Các điểm biện chứng chính yếu của chứng thực phẩm đ́nh trệ trong dạ dày gây rối loạn nhịp tim là ǵ?

Các điểm biện chứng chính yếu của chứng nước đ́nh trệ ở ngực sườn gây rối loạn nhịp tim chính là:

1/ Có tiền sử ăn uống không tiết độ, ăn uống quá nhanh quá nhiều.
2/ Dạ dày, bụng trướng đau.
3/ Hồi hộp, đau vùng ngực trái phía trước tim.
4/ Rêu lưỡi nhầy, mạch hoạt hoặc kết đại.
5/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Các điểm biện chứng chính yếu của chứng can uất hoá hoả gây rối loạn nhịp tim là ǵ?

Các điểm biện chứng chính yếu của chứng can uất hoá hoả gây rối loạn nhịp tim chính là:
1/ Hồi hộp phiền muộn.
2/ Vội vă hay cáu giận, ngực sườn trướng đầy, mắt đỏ, miệng đắng.
3/ Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Các điểm biện chứng chính yếu của chứng tâm hoả quá nhiều gây rối loạn nhịp tim là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu của chứng tâm hoả quá nhiều gây rối loạn nhịp tim chính là:
1/ Mất ngủ hay mơ, hồi hộp lo âu
2/ Mắt đỏ, miệng đắng, miệng lưỡi bị lở loét.
3/ Đầu lưỡi đỏ, mạch sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Các điểm biện chứng chính yếu của chứng tâm thận bất giao gây rối loạn nhịp tim là ǵ?

Các điểm biện chứng chính yếu của chứng tâm thận bất giao gây rối loạn nhịp tim chính là:
1/ Hồi hộp hay quên, bực bội mất ngủ.
2/ Vựng đầu ù tai, ngũ tâm phiền nóng, lưng gối đau mỏi.
3/ Lưỡi hồng tươi ít rêu, mạch tế sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Các điểm biện chứng chính yếu của chứng âm hư dương kháng gây rối loạn nhịp tim là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu của chứng âm hư dương kháng gây rối loạn nhịp tim chính là:
1/ Đầu vựng hồi hộp, mắt khô rít hoa mắt.
2/ Bực bội, ngủ hay mơ, ít ngủ, ḷng bàn tay bàn chân nóng.
3/ lưỡi hồng, ít rêu, mạch tế sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Khi rối loạn nhịp tim có thể xuất hiện các chứng trạng như ngực phiền muộn, đau ngực không?
Bn bệnh tim thường kèm theo rối loạn nhịp tim, v́ nguyên nhân cơ tim cung cấp huyết không đủ nên dễ xuất hiện các chứng trạng như ngực phiền muộn, đau ngực, khó thở, thuộc phạm trù “Hung tư” của đông y.
Hung tư là một loại bệnh chứng của bản thân bệnh tim, Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là đau ở đản trung (giữa hai vú) hoặc ngực trái. Thường do âm dương khí huyết thiên hư và các nhân tố như hàn ngưng, nhiệt kết, đàm trở, khí trệ, huyết ứ gây ra.
Đông y cho rằng tâm luật thất thường phát sinh ở bn bệnh tim, không ngoài bản hư tiêu thực, mà bản hư là chính. Bản hư có thể có khí hư, dương hư, âm hư, huyết hư, mà lại thường là dương tổn cập âm, âm tổn cập dương; Mà tà thực cũng có sự khác nhau như đàm, ẩm, khí trệ, huyết ứ, đồng thời lại kèm theo hàn và nhiệt khác nhau. Mà phát bệnh, bất luận là hư hoặc thực, đều do khí cơ không thuận lợi, khí huyết trở trệ, tâm mạch bị cản trở mà đột nhiên phát bệnh. V́ thế bệnh nhân tâm luật thất thường có thể phát sinh hung tư.
Rối loạn nhịp tim có thể phát sinh huyễn vựng không?
Huyễn vựng là tên gọi chung của mục huyễn và đầu vựng. Huyễn tức là hoa mắt hoặc trước mắt tối đén, nh́n vật không rơ; Vựng là cảm giác tự thân hoặc vật bên ngoài xoay tṛn, đứng ngồi không ổn định. Khi bệnh nhân tâm luật thất thường tim bơm lượng huyết giảm xuống rơ rệt, làm cho năo tạm thời thiếu máu, thiếu dưỡng khí, là có thể xuất hiện đầu vựng mục huyễn, thuộc phạm trù “huyễn vựng” của đông y. Đông y cho rằng huyễn vựng thường chủ yếu do nội thương. Mà nguyên nhân và cơ chế bệnh gồm các loại sau:   
(1) Can dương thượng kháng, can phong nội động;(2) Thận tinh bất túc, tuỷ hải không hư; (3) Khí huyết khuy hư, can thất sở dưỡng, hư phong nội động; (4) Đàm trọc trung trở, thanh dương bất thăng; (5) Ứ huyết nội trở kinh mạch, khí huyết bất năng vinh vu đầu mục. Những nguyên nhân bệnh nêu trên đều có thể phát sinh huyễn vựng.
 Rối loạn nhịp tim phổ biến có thể gây chóng mặt bao gồm: nhịp đập sớm, nhịp tim chậm,hội chứng nút xoang, nhịp nhanh thất hoặc trên thất kịch phát, rung nhĩ, blốc nhánh, blốc nhĩ thất, v.v.

Rối loạn nhịp tim trong t́nh huống nào có thể phát sinh vựng quyết?
Ngất có xảy ra trong rối loạn nhịp tim hay không phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra rối loạn nhịp tim và những biến đổi huyết động mà nó gây ra. Nói chung, do rối loạn nhịp tim (nhanh hoặc chậm), lượng máu tim giảm rơ rệt hoặc giảm đột ngột, kèm theo tưới máu năo không đủ, có thể xảy ra ngất đột ngột do thiếu máu cục bộ và thiếu oxy. Chẳng hạn như giảm cung lượng tim đột ngột do rối loạn nhịp nhanh kịch phát, rung nhĩ nhanh kèm theo suy tim nặng (III °), và hội chứng xoang bị bệnh, hội chứng Aspen, dẫn truyền xoang nhĩ mức độ cao, ngất có thể xảy ra ở bệnh nhân blốc nhĩ thất cấp độ cao, v.v. .

Rối loạn nhịp tim có thể bị mất ngủ không? 
Trong y học cổ truyền, chứng rối loạn nhịp tim thuộc về các chứng hồi hộp, đau tim, đau ngực và chóng mặt. Rối loạn nhịp tim là rối loạn của chính tim. “Nội kinh” tin rằng “Tâm tàng thần” và “Tâm chủ thần minh”. Giấc ngủ của người b́nh thường do tâm trí điều khiển. Khi khí dương chuyển từ trạng thái chuyển động sang trạng thái tĩnh lặng, đó là trạng thái ngủ, ngược lại, khi khí dương chuyển từ trạng thái tĩnh lặng sang động, đó là trạng thái thức. Thời Minh Trương Giới Tân đă nói trong {Cảnh Nhạc toàn thư · Bất mị}: “善寐本乎阴,神其主也,神安则寐,神不安则不寐。” (Ngủ ngon căn bản là âm, thần là chủ. Khi thần yên th́ ngủ, thần không yên th́ mất ngủ.) Đây là nói về quy luật âm dương bị phá vỡ, tâm thần bất an chính là tạo thành nguyên nhân mất ngủ
Căn nguyên và bệnh cơ của chứng mất ngủ do rối loạn nhịp tim chủ yếu là do nội thương, hội chứng hư tổn là chính. Trên lâm sàng thường gặp năm loại nội thương như nội thương do tinh thần, tâm huyết không đầy đủ, đàm nhiệt nhiễu loạn bên trong, tâm đảm hư khiếp và tâm thận bất giao.
Căn cứ theo lư luận của YHCT, rối loạn nhịp tim xuất hiện một số hội chứng sau đây th́ có thể xuất hiện mất ngủ.
1/ Thất t́nh nội thương: Thất t́nh (bảy cảm xúc) là Hỉ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh (Vui mừng, tức giận, lo lắng, suy nghĩ, buồn bă, sợ hăi và sốc). Bảy cảm xúc gây tổn thương ảnh hưởng đến ngũ tạng khiến bệnh nhân mất ngủ, Trong bảy cảm xúc th́ hay gặp gồm có như quá vui, giận quá, quá lo lắng, quá buồn, quá bi ai. V́ những hoạt động của các cảm xúc này luôn làm tổn háo khí của ngũ tạng, khiến cho công năng các tạng phủ mất điều hoà. Trong đó có quan hệ rất mật thiết với tạng tâm. Tạng tâm tàng chứa thần, lao tâm quá độ là tổn háo âm huyết, tâm hoả trở nên quá mạnh, nhiễu động tinh thần khiến tâm thần bị kích động, hồi hộp bất an mà phát sinh mất ngủ.
2/ Huyết của tâm không đầy đủ: Khi lao tâm quá độ nên tâm huyết bị tổn háo, huyết không nuôi tâm đầy đủ nên phát sinh hồi hộp mất ngủ.
3/ Tâm thận bất giao: Tâm chủ hoả, thận chủ thuỷ. Tâm hoả hạ giáng, thận thuỷ thăng lên, thuỷ hoả kư tế (đă tốt), tâm thận giao thông, sẽ ngủ b́nh thường. Do pḥng lao và các loại nguyên nhân làm cho thận âm bị hư tổn, thận thuỷ không đầy đủ, không thể tế (tốt) với tâm hoả; Hoặc do tâm dương suy vi, tâm hoả không thể đi xuống làm ấm thận thuỷ, khiến tâm thận không giao thông mà xuất hiện mất ngủ.
4/ Đàm hoả nhiễu loạn bên trong: Tố chất nhiều đàm, lao tâm tư lự, đàm uất hoá thành hoả, tâm âm hư suy hoá hoả, hoả thiêu đốt, đàm nhiễu loạn làm cho tâm thần bất an mất ngủ.
5/ Tâm đảm hư khiếp: Tố chất tâm khí hư, hay hoảng hốt sợ hăi, tinh thần bất an suốt ngày sợ sệt, hồi hộp lo âu, thành chứng mất ngủ.

Biểu hiện lâm sàng của chứng rối loạn nhịp tim do tâm khí hư là ǵ?
Bệnh nhân rối loạn nhịp tim do tâm khí hư tổn, trên lâm sàng có biểu hiện: Hồi hộp không yên, lồng ngực buồn bực thở ngắn, mỏi mệt, miệng môi trắng nhợt, tay chân không ấm áp, tự hăn, ngại nói. Chất lưỡi nhạt, mạch nhược vô lực.
Biểu hiện lâm sàng của chứng rối loạn nhịp tim do tâm dương bất chấn (là thuật ngữ của Tâm dương hư) là ǵ?
Bệnh nhân rối loạn nhịp tim do tâm dương bất chấn, thường có các biểu hiện lâm sàng là: Hồi hộp thở ngắn, thiểu khí vô lực, âm thanh nhỏ nhẹ hơi thở ngắn, ngực bế tắc phiền muộn, bệnh nặng hơn về đêm, ghét lạnh thích ấm, hoặc tứ chi quyết lănh, nước tiểu trong và nhiều, phân lỏng nát. Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch trầm vi hoặc trầm hoăn, mạch tŕ.
Biểu hiện lâm sàng của chứng rối loạn nhịp tim do tâm âm bất túc là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do tâm âm bất túc là: Hồi hộp buồn bực, đầu vựng hoa mắt, g̣ má hồng ù tai, miệng họng khô nhưng ít uống nước, ngủ kém hay mơ, sốt nhẹ, đổ mồ hôi trộm, thể chất gầy yếu. Chất lưỡi hồng, ít rêu hoặc rêu lưỡi bị bóc ra, mạch tế sác.

Biểu hiện lâm sàng của chứng rối loạn nhịp tim do tâm huyết không đầy đủ là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do tâm huyết không đầy đủ là: Hồi hộp lo âu, chóng mặt tối tăm, sắc mặt không tươi, bực bội mất ngủ, hay mơ, tinh thần uỷ mị, môi móng nhợt nhạt. Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế nhược.

Biểu hiện lâm sàng của chứng rối loạn nhịp tim do tâm tỳ lưỡng hư là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của chứng rối loạn nhịp tim do tâm tỳ lưỡng hư là: Hồi hộp hay quên, mất ngủ hay mơ, tinh thần mỏi mệt, ăn uống kém, trướng bụng phân lỏng. Phụ nữ có thể có các chứng trạng như kinh nguyệt lượng ít, sắc nhạt hoặc dây dưa không hết. Chất lưỡi nhạt và mềm, mạch tế nhược.
Biểu hiện lâm sàng của chứng rối loạn nhịp tim do thận tinh bất túc là ǵ?
Rối loạn nhịp tim do thận tinh suy yếu, căn cứ theo nguyên nhân bệnh khác nhau, thường chia thành hai loại sau:
1/ Tiên thiên bất túc, phát dục kém: Thường gặp ở trẻ em. {Lư hư vô giám ·Hư chứng hữu lục nhân}: “Tinh huyết bất vượng, chí linh sở sinh chi tử yểu nhược, cố hữu sinh nhi lai, hoặc thận, hoặc can tâm, hoặc tỳ phế, kỳ căn đế xử tiên hữu khuy.”精血不旺,致令所生之子夭弱,故有生而来,或肾、或肝心、或脾肺, 其根蒂处先有亏。” (Thiếu tinh huyết sẽ khiến đứa trẻ sinh ra yếu ớt, v́ vậy sẽ có những đứa trẻ sinh ra, hoặc thận, hoặc tâm can hay tỳ phế, căn bản của chúng đều bị hư yếu. ) Điều này nói lên sự thiếu hụt tinh huyết trong cơ thể người mẹ, khiến trẻ bị thiếu chất bẩm sinh, dẫn đến một số dị tật và phát triển c̣i cọc. Điều này dường như tương tự như thảo luận về một số bệnh bẩm sinh trong y học hiện đại. Mặc dù y văn của YHCT không có thuật ngữ bệnh tim bẩm sinh, nhưng rối loạn nhịp tim do thận khí không đủ chất ở trẻ em có thể liên quan đến bệnh tim bẩm sinh trong y học hiện đại. Điều này chủ yếu đề cập đến bệnh tim bẩm sinh ở trẻ em. Biểu hiện lâm sàng của trẻ là chậm lớn sau khi sinh, vóc người thấp bé, khó thở thường xuyên, hồi hộp và tức ngực, tím tái, hồi hộp, tức ngực, khó thở tăng dần khi sinh hoạt, thậm chí có thể xuất hiện những cơn ho, có thể thuyên giảm. ở trạng thái nghỉ ngơi. Thể trạng yếu, dễ cảm lạnh, kém ăn, mạch kết đại, v.v. Thông liên nhĩ hoặc thông liên thất của tim có thể được nh́n thấy bằng phương pháp khám bệnh hiện đại. Trong trường hợp này, y học cổ truyền dường như không có phương pháp điều trị, và phẫu thuật tim y học hiện đại có thể được sử dụng để sửa chữa và chữa trị tận gốc.
2/ Tổn thương do sinh hoạt phóng túng, suy kiệt tinh khí của thận: Ở người lớn do sinh hoạt không thận trọng, ham muốn quá độ, tự làm tổn hại thân thể, tổn thương và cạn kiệt tinh khí của thận, lăo hóa sớm, điếc, ù tai, đăng trí, hốt hoảng, sút cân, mệt mỏi, lưng gối đau mỏi, liệt dương, tóc rụng răng lung lay. Sau đó là các triệu chứng như hồi hộp, mất ngủ hay mơ, hoa mắt và chóng mặt. Mạch có thể thấy hư tế hoặc kết đại.

Biểu hiện lâm sàng của chứng rối loạn nhịp tim do can thận âm hư là ǵ?
Chứng rối loạn nhịp tim do can thận âm hư thường gặp ở tuổi trung lăo niên. Kinh viết: “Đến tuổi 40, âm khí c̣n một nửa” (人年四十,阴气自半).
Biểu hiện lâm sàng là: Hồi hộp phiền muộn, mất ngủ hay mơ, vựng đầu hoa mắt, ù tai hay quên, eo gối đau mỏi, ngũ tâm phiền nóng, triều nhiệt (người phát nóng vào giờ thân 15h~17h) đạo hăn(ngủ đổ mồ hôi), miệng họng khô, cạnh sườn đau rát. Người nam di tinh, người nữ lượng kinh nguyệt ít. Chất lưỡi hồng, ít rêu lưỡi, mạch tế huyền, tế sác …

Các biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do hoảng sợ là ǵ?
Rối loạn nhịp tim do hoảng sợ, chủ yếu là do bị chấn động, bị dọa dẫm đột ngột, xảy ra hiện tượng “kinh tắc khí loạn” (惊则气乱) sợ th́ khí loạn khiến tâm thần không thể tự chủ, nằm ngồi không yên, sợ hăi. Ngoài ra, do “khủng tắc hạ khí”, “khủng hại thận” (“恐则气下”、“恐伤肾”) sợ th́ khí hạ, sợ hại thận nên tinh khí hư tổn khiếp đảm, dẫn đến hồi hộp, bồn chồn.
Biểu hiện lâm sàng là: Hồi hộp bồn chồn, hay hoảng sợ, tinh thần không ổn định, ngủ hay mơ dễ thức giấc, kinh sợ bất an, đa nghi, chán ăn, Chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tiểu sác.

Biểu hiện lâm sàng của chứng rối loạn nhịp tim do tâm hư đảm khiếp là ǵ?
Rối loạn nhịp tim do tâm hư đảm khiếp, thường đột nhiên bị kinh hăi, đột ngột nghe thấy tiếng động lớn, nh́n thấy vật thể lạ, leo trèo cao gây nguy hiểm và cảm thấy sợ hăi và không thể kiểm soát được bản thân. Từ đó, mỗi khi hơi sợ hăi, liền cảm thấy đánh trống ngực. V́ vậy, “Tế sinh phương” đă chỉ ra rằng: “Sợ hăi là do tâm hư yếu và đảm khiếp sợ gây ra”.
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do tâm hư đảm khiếp là: Hồi hộp, dễ hoảng sợ, bồn chồn, thường xuyên nằm mơ, dễ tỉnh giấc, lười ăn và chán ăn, ghét nghe tiếng động. Lưỡi hầu như b́nh thường, mạch tế hơi sác hoặc huyền tế.

Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do tâm huyết ứ trở là ǵ?
Rối loạn nhịp tim do máu ở tim bị tắc nghẽn thường do tâm khí hư hoặc tâm dương hư, không đủ lực vận chuyển máu gây ra. Thứ nữa là do cảm xúc quá độ, mệt mỏi, bị lạnh, dẫn đến mạch máu bị tắc nghẽn mà h́nh thành huyết ứ.
Rối loạn nhịp tim do máu bị tắc nghẽn thường có biểu hiện lâm sàng như: Hồi hộp hơi thở ngắn, lồng ngực khó chịu, có lúc đau nhói ở tim, trường hợp bệnh nặng sẽ đau lan sang vai lưng, môi, móng xanh tím. Chất lưỡi ảm đạm hoặc xanh tím, hoặc có ứ điểm, rêu lưỡi trắng hoặc vàng, mạch sáp hoặc kết đại.

Biểu hiện lâm sàng của chứng rối loạn nhịp tim do đàm hoả nhiễu loạn tạng tâm là ǵ?
Rối loạn nhịp tim do đàm hoả nhiễu loạn tạng tâm thường gặp hoả của t́nh chí nội phát, hoặc do lục dâm hoá hoả uất ở trong.
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do đàm hoả nhiễu loạn tạng tâm là: Hồi hộp , chóng mặt mất ngủ, miệng lưỡi bị lở loét, miệng họng khô đắng, hoặc thổ huyết hoặc chảy máu mũi. Đầu lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng hoặc vàng nhờn, mạch hoạt sác hoặc huyền sác.
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do thuỷ khí xâm phạm tạng tâm là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do thuỷ khí xâm phạm tạng tâm thường v́ tâm dương hư, thuỷ ẩm tràn lên gây ra.
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do thuỷ khí xâm phạm tạng tâm là: Hồi hộp ngực trướng đầy, vựng đầu hoa mắt, phù thũng, ho, khạc đàm trắng lỏng, tiểu tiện ít và khó, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trơn mỏng, mạch trầm huyền.
Nếu tâm dương bất chấn có thêm thận dương hư th́ có thể tiểu tiện bất lợi, da thịt co giật, hoặc chi thể phù thũng.

Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do nước đ́nh trệ ở ngực sườn là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do nước đ́nh trệ ở ngực sườn là: Hô hấp cấp bách vội vă, ngực sườn trướng đầy, ph́nh to giữa hai xương sườn, khi ho kéo theo đau ngực sườn, nếu bệnh nặng hoặc có thể xuất hiện hồi hộp, ngực khó chịu, suyễn, ho từng cơn, không thể nằm. Rêu lưỡi trắng, mạch trầm huyền hoặc kết đại.

Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do hàn lănh ngưng tụ ở tâm mạch là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do hàn lănh ngưng tụ ở tâm mạch là: Đột nhiên đau thắt ở vùng trước tim, đau sang lưng, đau từ lưng sang ngực, hoặc đau khó chịu, thân thể lạnh và sợ lạnh. Bệnh nặng th́ tay chân không ấm, xuất mồ hôi lạnh, hồi hộp thở ngắn, ho suyễn không thể nằm ngửa. Rêu lưỡi trắng mỏng hoặc trắng, mạch khẩn hoặc trầm tŕ.
Bệnh này gặp thời tiết lạnh lẽo hoặc ra gió th́ cơn đau tim dễ phát tác hoặc tăng nặng.
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do thực phẩm đ́nh trệ ở dạ dày là ǵ?
Rối loạn nhịp tim do thực phẩm đ́nh trệ ở dạ dày thường gặp ở bệnh nhân dă bị bệnh hồi hộp, ăn uống không tiết chế.
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do thực phẩm đ́nh trệ ở dạ dày là: Ăn uống không tiết chế, ăn uống nhiều làm cho dạ dày khó chịu, ợ hơi, bụng không thoải mái hoặc bụng, dạ dày trướng đau, đại tiện không sảng khoái, không ngủ. Bệnh tăng nặng khi xuất hiện hồi hộp ngực trướng đầy, đau vùng trước tim, rêu lưỡi nhờn, mạch hoạt hoặc kết đại.
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do can uất hoá hoả là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do can uất hoá hoả là: Hồi hộp phiền muộn, ít ngủ hay mơ, đau đầu mắt đỏ, vội vă dễ tức giận, ngực sườn trướng đầy, khát nước, miệng đắng, táo bón nước tiểu đỏ. Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác.

Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do tâm hoả kháng thịnh (quá mạnh) là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do tâm hoả kháng thịnh (quá mạnh) là: Mất ngủ hay mơ, trong ngực nóng khó chịu, hồi hộp lo âu, mặt đỏ miệng đắng, miệng lưỡi mọc mụn, tiểu tiện đỏ và ít và đau. Đầu lưỡi hồng, mạch sác.

Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do tâm thận bất giao là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do tâm thận bất giao là: Hồi hộp hay quên, buồn bực mất ngủ, vựng đầu ù tai, miệng khô ít tân dịch, hai g̣ má hồng, ngũ tâm phiền nóng, lưng ê ẩm di tinh. Lưỡi hồng tươi ít rêu, mạch tế sác.

Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do âm hư dương kháng là ǵ?
Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim do âm hư dương kháng là: Vựng đầu hồi hộp, mắt khô rít hoa mắt, bực bội mất ngủ, hay mơ, đạo hăn, ḷng bàn tay bàn chân nóng, miệng khô. Lưỡi hồng ít rêu, hoặc lưỡi không rêu, mạch tế sác hoặc tế huyền.

Nguyên tắc điều trị chủ yếu của YHCT đối với chứng hồi hộp do rối loạn nhịp tim là ǵ?
Nguyên tắc điều trị chủ yếu của YHCT đối với chứng hồi hộp chính là căn cứ theo các đặc điểm như: Vị trí bệnh tại tim, hội chứng biểu hiện là hư thực hỗn hợp và hư là chính, quy định nguyên tắc trị liệu cơ bản với bổ hư là chính, trừ khứ bệnh tà là phụ. Nhưng quan niệm tổng thể của YHCT cho rằng, chứng hồi hộp có vị trí bệnh ở tim, nhưng công năng của ngũ tạng lục phủ mất điều hoà đều có thể hỗ tương ảnh hưởng, hỗ tương tác động. V́ vậy, tùy theo mức độ hư tổn của tạng phủ hoặc là bổ sung khí huyết không đầy đủ, hoặc là điều ḥa âm dương thịnh suy, để âm b́nh dương bí (thăng bằng âm dương), để phục hồi khí huyết. chức năng của các tạng phủ trở lại b́nh thường, và để điều chỉnh sự lưu thông của khí và huyết. Đây chủ yếu là phương diện bổ hư. Trên phương diện tà thực của bệnh. Chủ yếu chính là v́ hư mà dẫn đến thực. Như tỳ hư vận hoá không điều hoà mà sinh đàm, khí hư nên huyết tuần hành không thông suốt mà gây ra ứ huyết, với đàm ẩm đ́nh trệ ở trong và ứ huyết cản trở lạc mạch là những nguyên nhân thường gặp. Thứ nữa, hồi hộp cũng có thể dẫn đến các chứng trạng tâm thần bất an như mất ngủ và chóng mặt, đều do tâm chủ thần minh, tâm chủ huyết, khí của tâm thông vào năo. V́ vậy, trong điều trị tim hồi hộp, trên cơ sở bổ khí và trừ khứ mầm bệnh, người ta thường dùng các phương dược như dưỡng tâm an thần, hoặc trấn (trấn tĩnh) tâm an thần hay bổ ích tâm huyết.
V́ thế, trên lâm sàng khi trị liệu chứng rối loạn nhịp tim dẫn đến hồi hộp, với Ích khí dưỡng huyết, tư âm ôn dương, kiện tỳ hoá đàm điều ẩm, hoạt huyết khứ ứ và dưỡng tâm an thần, trấn tâm an thần là những nguyên tắc được sử dụng.
Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào của chứng rối loạn nhịp tim do tâm khí hư tổn?
Biện chứng các điểm chính của rối loạn nhịp tim do tâm khí hư tổn là:
1/ Có chứng trạng chủ yếu của hồi hộp do tâm khí hư tổn, hồi hộp tăng nặng khi mệt mỏi.
2/ Sắc mặt trắng, yếu sức.
3/ Chất lưỡi nhạt, thân lưỡi mềm to, mạch hư.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.
Hư th́ bổ khí, tổn th́ thêm vào, v́ thế nguyên tắc trị liệu chứng rối loạn nhịp tim do tâm khí hư tổn chính là bổ ích tâm khí, an thần định chí. Dùng phương Ngũ vị tử thang trong {Cảnh Nhạc toàn thư}: Ngũ vị tử 10g, Mạch đông 15g, Hoàng kỳ 20g, Nhân sâm 5g, Chích cam thảo 10g. Trong phương có Hoàng kỳ, Nhân sâm, chích Cam thảo đại bổ nguyên khí; Ngũ vị tử, mạch đông ích khí dưỡng âm. Nếu kèm theo mất ngủ gia thêm Toan táo nhân 10g, Bá tử nhân 15g, Hợp hoan b́ 12g, Dạ giao đằng 15g để dưỡng tâm an thần. Kèm theo sợ lạnh dương hư gia Quế chi 12g, Tế tân 6g, Phụ tử 10g.
Thứ nữa, có thể tuyển dụng Dưỡng tâm thang trong{Chứng trị chuẩn thằng}: Hoàng kỳ 15g, Phục linh 12g, Phục thần 15g, Đương quy 12g, Xuyên khung 10g, chích Cam thảo 12g, Bán hạ khúc 10g, Bá tử nhân 12g, Toan Táo nhân 10g, Viễn chí 10g, Ngũ vị tử 6g, Nhân sâm 6g, Nhục quế 10g, để ích khí ôn dương, bổ tâm an thần.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào chứng rối loạn nhịp tim do tâm dương bất chấn(tâm dương hư)?

Những điểm biện chứng chính yếu của chứng rối loạn nhịp tim do tâm dương bất chấn là ǵ?
Những điểm biện chứng chính yếu của chứng rối loạn nhịp tim do tâm dương bất chấn là:
1/ Có đủ chứng trạng chủ yếu hồi hộp thở ngắn của tâm dương bất chấn.
2/ Sợ lạnh, chân tay lạnh, sắc mặt trắng xanh, đại tiện lỏng nát, nước tiểu trong và nhiều.
3/ Chất lưỡi nhạt hoặc tím tối, mạch vi nhược hoặc kết đại.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.
Tâm dương bất chấn là tâm khí hư phát triển thêm một bậc mà thành, mấu chốt tại dương khí không đầy đủ mà xuất hiện sợ lạnh chân tay lạnh. Điều trị nên bồi bổ dương, v́ thế nguyên tắc trị liệu chính là: Ôn bổ tâm dương, dưỡng tâm an thần. Dùng Lạc linh kiến trung thang {Hoà tễ cục phương}: Đảng sâm 20g, Hoàng kỳ 20g, Phục linh 15g, chích Cam thảo 12g, Sinh khương 6g, Đại táo 10g, Quế chi 12g, Quế tâm 12g, Tế tân 5g, Bán hạ 12g, Bạch thược 12g, Đương quy 15g, Mạch đông 12g. Trong phương Đảng sâm, Hoàng kỳ, chích Cam thảo bổ khí; Quế chi, Quế tâm, Tế tân ôn bổ tâm dương; Phục linh, Bán hạ kiện tỳ hoá đàm; Đương quy, Mạch đông, Bạch thược bổ huyết dưỡng tâm; Sinh khương, Đại táo điều hoà doanh vệ, cộng lại có công dụng ôn tâm dương, bổ tâm huyết, kiện tỳ an thần. Nếu tứ chi quyết lănh (lạnh đến khuỷu, gối),phân nát, đi tiểu nhiều lần, mạch tế, thuộc dương hàn thịnh, có thể gia thêm Phụ tử từ 12~15g để ôn bổ dương cho tâm thận.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào chứng rối loạn nhịp tim do tâm âm không đầy đủ?
Biện chứng yếu điểm của rối loạn nhịp tim do tâm âm bất túc là ǵ?
Biện chứng yếu điểm của rối loạn nhịp tim do tâm âm bất túc chính là:
1/ Có đủ chứng trạng chủ yếu của tâm âm bất túc như hồi hộp, vội vă, mất ngủ…
2/ Sốt nhẹ, ngũ tâm phiền nóng, miệng khô.
3/ Chất lưỡi hồng ít tân dịch, mạch tế sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Khi tâm âm bất túc là đă tồn tại một phương diện âm hư, lại v́ tâm âm bất túc, tâm hoả liền sinh ra. V́ thế, khi điều trị ngoài việc tư bổ tâm âm, c̣n cần phải thanh giáng hư hoả. Căn cứ biểu hiện lâm sàng là âm hư th́ tư âm là chính, nếu biểu hiện là hoả vượng th́ thanh hư hoả là chính.
Nguyên tắc điều trị chứng rối loạn nhịp tim do tâm âm bất túc là: Tư bổ âm dưỡng huyết, ninh tâm an thần. Dùng Thiên vương bổ tâm đan {Nhiếp sinh bí phẫu}: Nhân sâm 6g, Huyền sâm 10g, Đan sâm 12g, Phục linh 12g, Ngũ vị tử 10g, cứu Viến chí 12g, Cát cánh 10g, Đương quy 12g, Thiên đông 12g, Mạch đông 15g, Bá tử nhân 12g, Toan táo nhân 12g. Sinh địa 15g. Trong phương dùng Thiên đông, Mạch đông, Huyền sâm, Sinh địa tư dưỡng tâm âm; Đương quy, Đan sâm bổ tâm huyết; Nhân sâm, Phục linh bổ tâm khí; Toan táo nhân, Bá tử nhân, cứu Viễn chí, Ngũ vị tử dưỡng tâm an thần. Cộng toàn phương có công dụng tư âm dưỡng huyết, ninh tâm an thần.
Nếu bệnh nhân âm hư không nặng, hư hoả rơ rệt, lâm sàng biểu hiện bực bội, ngủ kém, ngũ tâm phiền nóng, đạo hăn, miệng khô, có thể dùng Chu sa an thần hoàn {Y học phát minh}: thuỷ phi Chu sa 3g, Hoàng liên 6g, Sinh địa 15g, Đương quy 15g, Cam thảo 10g. Có tác dụng thanh tả tâm hoả, dưỡng tâm âm, bổ tâm huyết, ninh tâm thần.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào chứng rối loạn nhịp tim do tâm huyết bất túc?

Biện chứng yếu điểm của rối loạn nhịp tim do tâm huyết bất túc là ǵ?
Biện chứng yếu điểm của rối loạn nhịp tim do tâm huyết bất túc chính là:
1/ Có chứng trạng chủ yếu của tâm huyết bất túc là hồi hộp lo âu.
2/ Đầu óc tối tăm, hoa mắt, sắc mặt kém tươi, miệng móng màu nhạt.
3/ Chất lưỡi nhạt, mạch tế nhược.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn của nhịp tim.

Nguyên tắc điều trị của chứng rối loạn nhịp tim do tâm huyết bất túc là: Bổ huyết dưỡng tâm, ích khí an thần. Dùng phương Quy tỳ thang ({Tế Sinh Phương}) : Đảng sâm 15g, Hoàng kỳ 20g, Bạch truật 15g, Phục thần 15g, Toan táo nhân 10g, Long nhăn nhục 15g, Đương quy 15g, cứu Viễn chí 6g, Mộc hương 6g, chích Cam thảo 10g, Sinh khương 10g, Đại táo 10g. Trong phương dùng Đảng sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, chích Cam thảo ích khí kiện tỳ, tốt cho nguồn sinh hoả để bổ khí, có khả năng sinh huyết; Đương quy, Long nhăn nhục bổ dưỡng tâm huyết; Toan táo nhân, Phục thần, cứu Viễn chí dưỡng tâm an thần; Mộc hương lư tỳ khí (điều chỉnh khí ở tạng tỳ), khiến cho thang dược có tác dụng bồi bổ nhưng không tŕ trệ. Hợp lại có công dụng kiện tỳ bổ huyết, dưỡng tâm an thần. Nếu tâm huyết bất túc kèm theo khí hư yếu sức, có thể thay Đảng sâm bằng 6g Hồng sâm, đồng thời gia Hoàng tinh 12g, để tăng cường tác dụng bổ khí.
Nếu tim đập nhanh mà mạch kết đại, là khí hư huyết ít, huyết không dưỡng tâm. Có thể dùng thang Chích cam thảo để Ích khí dưỡng huyết, tư âm phục mạch ({Thương Hàn Luận}): Chích Cam thảo 12g, Nhân sâm 6g, Quế chi 10g, A giao 15g, Sinh địa 15g, Mạch đông 15g, Hoả ma nhân 10g, Đại táo 10g, Sinh khương 10g.
Thứ nữa, c̣n có thể dùng thang Tứ vật gia vị: Đương quy 15g, Xuyên khung 10g, Bạch thược 15g, Thục địa 12g, cứu Viễn chí 10g, Toan táo nhân 12g, Dạ giao đằng 20g, để bổ huyết an tâm thần.

Chứng rối loạn nhịp tim do tâm tỳ lưỡng hư, điều trị như thế nào?
Biện chứng yếu điểm của chứng rối loạn nhịp tim do tâm tỳ lưỡng hư là ǵ?
Biện chứng yếu điểm của rối loạn nhịp tim do tâm tỳ lưỡng hư, cần phải có đủ hai tổ hội chứng là tâm hư và tỳ hư.
1/ Có chứng trạng hồi hộp hay quên, mất ngủ hay mơ của tạng tâm hư tổn.
2/ Có ăn uống kém, trướng bụng, phân nát, tinh thần uể oải mỏi mệt là chứng trạng của tỳ hư.
3/ Phụ nữ lượng kinh nguyệt ít, sắc kinh nhạt.
4/ Chất lưỡi nhạt mềm, mạch tế nhược.
5/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Nguyên tắc điều trị của chứng rối loạn nhịp tim do tâm tỳ lưỡng hư là: Bổ ích tâm tỳ, ích huyết an thần. Dùng thang Quy tỳ ({Tế Sinh Phương}): Nhân sâm 6g, Bạch truật 15g, Hoàng kỳ 15g, Phục thần 15g, Toan táo nhân 12g, Long nhăn nhục 15g, Mộc hương 6g, chích Cam thảo 10g, Đương quy 12g, cứu Viễn chí 10g, Sinh khương 10g, Đại táo 10g. Trong phương dùng Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Cam thảo, sinh khương, Đại táo ôn bổ ích tỳ khí; Đương quy vị ngọt, cay ấm dưỡng can mộc sinh tâm huyết; Phục thần, Táo nhân, Long nhăn nhục vị ngọt tính b́nh dưỡng tâm an thần; Viễn chí nướng có tác dụng giao thông tâm và thận để định chí an tâm; Mộc hương lư tỳ khí (điều chỉnh khí ở tạng tỳ), dùng Mộc hương để đề pḥng thuốc bổ ích khí huyết có tác dụng phụ gây tŕ trệ, trở ngại công năng vận hoá của tỳ vị. Phương thang này có tác dụng Bổ ích tỳ khí, dưỡng tâm huyết, an tâm thần và ninh tâm định chí. Toàn phương có công hiệu bổ ích tâm tỳ, ninh tâm an thần.
Nếu tâm huyết không đầy đủ gia A giao 15g (nấu chảy), Thục địa 12g, Bạch thược 12g, để bổ dưỡng tâm huyết. Mất ngủ hay mơ có thể tái gia Ngũ vị tử 10g, Bá tử nhân 12g, để dưỡng tâm an thần, hoặc gia Long cốt 20g, Mẫu lệ 20g, Dạ giao đằng 15g, để trấn tâm an thần.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào chứng rối loạn nhịp tim do thận tinh bất túc?
1/ Tiên thiên bất túc, phát dục bất toàn (thiểu năng bẩm sinh, kém phát triển)
① Tinh huyết của người mẹ không tốt, thai nhi bẩm sinh không được đầy đủ.
② Sau khi sinh trẻ chậm phát triển.
③ Thường xuyên thở gấp, hồi hộp khó chịu. trong ngực, môi tím tái, sau khi hoạt động hồi hộp thở ngắn tăng nặng.
④ Mạch kết đại.
⑤ Y học hiện đại kiểm tra khẳng định thông liên nhĩ hoặc thông liên thất ở tim.
⑥ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

2/ Tổn thương do sắc dục vô độ, thận tinh suy kiệt:
① Thường gặp ở người trưởng thành.
② Sắc dục vô độ, có dung mạo của người chưa già đă suy, hoặc bệnh lâu ngày, thận hư suy.
③ Lưng ê ẩm, ù tai, liệt dương di tinh, tóc rụng răng lung lay, sau đó xuất hiện hồi hộp lo âu.
④ Mạch hư tế vô lực.
⑤ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.

Nguyên tắc điều trị chứng rối loạn nhịp tim do thận tinh suy yếu là tư bổ thận tinh, bổ thuỷ an tâm. Dùng phương Tả quy hoàn ({Cảnh Nhạc Toàn Thư}): Thục địa 15g, Sơn thù 12g, Kỷ tử 15g, Sơn dược 12g, Cam thảo 6g, Ngưu tất 10g, Thố ti tử 15g, Lộc giao 12g, Quy bản giao 12g. Trong phương dùng Thục địa tư thận thêm chân âm, Kỷ tử ích tinh, Sơn thù sáp tinh liễm mồ hôi, Quy Lộc là Nhị tiên giao, là dược phẩm của tinh huyết, một bổ dương, một tư âm, nối liền hai mạch nhâm và đốc, ích tinh thêm tuỷ, là ư của “Cầu âm trong dương” (阳中求阴). Thố ti tử phối Ngưu tất, mạnh eo gối, Sơn dược bổ tỳ ích thận. Toàn phương có công hiệu bổ thận thêm tinh và bổ thủy an tâm.
Nếu âm hư nội nhiệt rơ rệt th́ gia thêm Miết giáp 15g, Tri mẫu 10g, Hoàng bá 10g để tư âm thanh nhiệt. Nếu hồi hộp nhiều gia Dạ giao đằng 20g, Toan táo nhân 12g, Bá tử nhân 12g để dưỡng tâm an thần.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào chứng rối loạn nhịp tim do can thận âm hư ?
Biện chứng yếu điểm của chứng rối loạn nhịp tim do can thận âm hư là ǵ?
Biện chứng yếu điểm của chứng rối loạn nhịp tim do can thận âm hư là:
1/ Chứng này thường gặp ở người cao tuổi.
2/ Có đủ chứng trạng can thận âm hư hồi hộp phiền muộn.
3/ Vựng đầu ù tai, eo gối đau mỏi, ngũ tâm phiền nóng, họng khô, đau rát cạnh sườn.
4/ Lưỡi hồng ít rêu, mạch tế huyền.
5/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.
Nguyên tắc điều trị của chứng rối loạn nhịp tim can thận âm hư chính là tư bổ can thận, dưỡng tâm an thần. Dùng phương Nhất quán tiễn ({Liễu Châu Y Thoại}) hợp với thang Toan táo nhân ({Kim Quỹ Yếu Lược}): Sinh địa 15g, Sa sâm 20g, Kỷ tử 15g, Mạch đông 15g, Đương quy 15g, Xuyên luyện tử 10g, Toan táo nhân 12g, Phục linh 12, Xuyên khung 10g, Tri mẫu 6g, Chích cam thảo 10g. Nhất quán tiễn dùng Sa sâm, Mạch đông, Đương quy, Sinh địa, Kỷ tử để bồi bổ âm cho can thận, dùng Xuyên luyện tử sơ tiết (khai thông điều tiết) can, điều chỉnh (lư) khí, khiến cho dù dùng nhiều thuốc bổ âm mà vẫn không bị tŕ trệ. Thang Toan táo nhân với Táo nhân dưỡng tâm an thần, Phục linh, Cam thảo bồi bổ thổ hoà hoăn can (bổ thổ hoăn mộc), Xuyên khung điều hoà huyết dịch nuôi dưỡng can, Tri mẫu thanh nhiệt trừ phiền. Sử dụng kết hợp hai phương có thể bồi bổ âm cho can thận, có công dụng ninh tâm dưỡng huyết an thần. Nếu táo bón (thường gặp ở người cao tuổi) có thể gia Ma nhân 15g, Sinh thủ ô 20g, để nhuận tràng thông đại tiện; Nhật bô (giờ thân 15~17h) người nóng bừng, có thể gia Địa cốt b́ 12g, Ngân sài hồ 10g, để tư bổ âm và thanh nhiệt. Miệng họng rất khô về ban đêm gia Thạch hộc 15g, Ngọc trúc 12g, để bổ dạ dày thêm tân dịch. Hư hoả bên trong mạnh, bực bội, vội vă dễ tức giận, chất lưỡi hồng gia Hoàng liên 6g, Chi tử 10g, để thanh tâm hoả.
Thứ nữa, cũng có thể dùng Gia vị Nhất quán tiễn: Sinh địa 15g, Kỷ tử 15g, Mạch đông 15g, Đương quy 15g, Thạch hộc 15g, Sa sâm 20g, Xuyên luyện tử 10g, Táo nhân 10g, Quy bản giao 10g (nấu chảy), Dạ giao đằng 30g, bồi bổ âm cho can thận, dưỡng tâm an thần.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào chứng rối loạn nhịp tim do hoảng sợ?
Biện chứng các điểm chính của rối loạn nhịp tim do rối loạn hoảng sợ là ǵ? (rối loạn hoảng sợ là rối loạn lo âu cấp tính)
Các điểm biện chứng chính của loạn nhịp tim do rối loạn hoảng sợ là:
1/ Có bệnh sử gặp chuyện gây kinh hăi hoảng sợ.
2/ Hồi hộp bất an hay sợ hăi, tâm trạng không ổn định.
3/ Chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tiểu sác.
4/ Điên tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.
Rối loạn nhịp tim do hoảng sợ, v́ hoảng sợ mà bệnh. Nên nguyên tắc điều trị là: Trấn kinh định chí, dưỡng tâm an thần. Dùng An thần định chí hoàn ({Y Học Tâm Ngữ}) kết hợp với Từ Chu hoàn ({Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương}): Phục linh 15g, Phục thần 15g, Viễn chí 10g, Nhân sâm 6g, Thạch xương bồ 12g, Long xỉ 20g, Từ thạch 20g, Chu sa 3g, Thần khúc 12g.
Trong An thần định chí hoàn, Phục linh, Phục thần, Viễn chí, Thạch xương bồ có tác dụng kiện tỳ an thần, Nhân sâm ích khí, Long xỉ trấn tâm trị kinh hăi. Trong Chu sa hoàn có Từ thạch Chu sa là những vị thuốc an thần quan trọng, Thần khúc kiện tỳ. Sử dụng kết hợp hai phương trên có công hiệu trị kinh hăi và an thần định chí. Nếu kèm theo tâm thần bất định, đêm ngủ kém hay mơ có thể gia Dạ giao đằng 20g, Hợp hoan b́ 10g, Toan táo nhân 12g, để dưỡng tâm an thần.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào chứng rối loạn nhịp tim do tâm hư đảm khiếp?
Biện chứng yếu điểm chứng rối loạn nhịp tim do tâm hư đảm khiếp là ǵ?
Biện chứng yếu điểm chứng rối loạn nhịp tim do tâm hư đảm khiếp chính là:
1/ Có cảm giác hoảng sợ, chẳng hạn như đột nhiên sợ hăi hoặc bị bắt buộc phải mạo hiểm.
2/ Hồi hộp, sợ hăi, ghét âm thanh, gặp ǵ cũng sợ, cũng hồi hộp.
3/ Lưỡi b́nh thường, rêu lưỡi mỏng, mạch tế hơi sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.
Khi điều trị chứng rối loạn nhịp tim do tâm hư đảm khiếp nên nắm vững hai từ Hư và Khiếp. Nguyên tắc điều trị là: Dưỡng tâm an thần, trấn kinh định chí. Dùng An thần định chí hoàn ({Y Học Tâm Ngữ}): Phục linh 15g, Phục thần 15g, cứu Viễn chí 10g, Nhân sâm 6g, Thạch xương bồ 10g, Long xỉ 30g. Dùng Nhân sâm ích khí bổ hư, Phục linh, Phục thần, Viễn chí dưỡng tâm an thần; Long xỉ, Thạch xương bồ trấn áp kinh sợ định thần chí. Toàn phương có công hiệu an thần định chí và trấn kinh. Nếu kèm theo miệng họng khô, ngũ tâm phiền nóng, đạo hăn (đổ mồ hôi trong khi ngủ) là những chứng trạng của tâm âm bất túc, có thể gia Bá tử nhân 10g, Ngũ vị tử 10g, Toan táo nhân 12g, Mạch đông 15g, Thạch hộc 15g, để dưỡng tâm an thần, tư bổ âm dịch, liễm tâm khí.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thể nào chứng rối loạn nhịp tim do tâm huyết ứ trở (ứ trệ tắc nghẽn)?
Biện chứng yếu điểm của rối loạn nhịp tim do tâm huyết ứ trở là ǵ?
Biện chứng yếu điểm của rối loạn nhịp tim do tâm huyết ứ trở chính là:
1/ Tâm huyết ứ trở thường do tâm khí hư hoặc tâm dương hư, không có lực vận hành huyết dịch gây ra tâm huyết ứ trệ tắc nghẽn.
2/ Hồi hộp, ngực khó chịu, có lúc đau nhói, đau lan sang vai lưng, môi, móng xanh tím.
3/ Chất lưỡi ảm đạm, có màu xanh tím hoặc có ứ điểm, mạch sáp hoặc kết đại.
4/Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn nhịp tim.
Cơ chế bệnh của chứng rối loạn nhịp tim do tâm huyết ứ trở chính là ứ huyết tắc nghẽn, tâm mạch không thông suốt. V́ thế nguyên tắc điều trị chính là: Hoạt huyết hoá ứ, thông mạch trị đau. Dùng phương Huyết phủ trục ứ thang: Đương quy 12g, Sinh địa 12g, Đào nhân 10g, Hồng hoa 6g, Chỉ sác 12g, Xích thược 10g, Sài hồ 10g, Cát cánh 6g, Xuyên khung 10g, Ngưu tất 10g, Cam thảo 6g. Phương thang dùng Đương quy, Đào nhân, Xuyên khung, Hồng hoa, Xích thược hoạt huyết hoá ứ mà thông huyết mạch, Sài hồ, Cát cánh, với Chỉ xác, Ngưu tất là một loại thuốc thăng lên và một loại thuốc hạ giáng, điều hoà thông suốt khí cơ, khai thông dương của lồng ngực, hành khí mà hỗ trợ hoạt huyết, Sinh địa có thể làm mát máu và tiêu ứ, lại có thể dưỡng âm, tư bổ huyết táo, Cam thảo điều hoà các vị thuốc. Toàn phương hiệp lực có công hiệu khứ ứ thông mạch, hành khí chỉ thống (giảm đau). Nếu kèm theo khí hư th́ khứ Sài hồ, Chỉ xác, gia Hoàng kỳ 20g, Đảng sâm 20g, Hoàng tinh 15g để bổ huyết ích khí; Nếu kèm theo huyết hư gia Thục địa 15g, Cẩu kỷ tử 15g, chế Thủ ô 20g để bổ huyết dưỡng huyết; Nếu kiêm âm hư th́ khứ Sài hồ, Chỉ xác, Cát cánh, Xuyên khung, gia Mạch đông 15g, Ngọc trúc 12g, Nữ trinh 15g, Hạn liên thảo 10g, để dưỡng âm sinh tân dịch; Nếu kiêm dương hư th́ khứ Sài hồ, Cát cánh, cân nhắc gia Phụ tử 15g, Nhục quế 10g, Dâm dương hoắc 12g, Ba kích 12g, để ấm kinh mạch hỗ trợ dương khí.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu chứng rối loạn nhịp tim do đàm hoả như thế nào?
Biện chứng các điểm chính yếu của chứng rối loạn nhịp tim do đàm hoả là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu của rối loạn nhịp tim do đàm hoả là:
1/ Đàm hoả nhiễu loạn tâm thường do cảm xúc nội uất hoá hoả gây ra.
2/ Hồi hộp, vội vă, mất ngủ, miệng lưỡi lở loét hoặc thổ nục.
3/ Đầu lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn của nhịp tim.
Rối loạn nhịp tim do đàm hoả, tai hoạ chủ yếu là đàm hoả. Trị pháp là: Thanh nhiệt hoá đàm, ninh tâm an thần. Dùng Hoàng liên ôn đảm thang ({Thiên Kim Phương}): Bán hạ 15g, Trần b́ 12g, Phục linh 15g, Cam thảo 6g, Chỉ thực 10g, Trúc nhự 10g, Hoàng liên 10g, Đại táo 6g, Sinh khương 10g. Trong phương có Bán hạ giáng nghịch hoà vị, táo thấp hoá đàm. Chỉ thực hành khí tiêu đàm, khiến đàm theo khí mà hạ. Trần b́ lư khí táo thấp, Phục linh kiện tỳ thấm thấp, khiến cho thấp khứ đàm tiêu. Trúc nhự, Hoàng liên thanh nhiệt hoá đàm, trừ phiền an tâm. Sinh khương, Đại táo, Cam thảo ích tỳ hoà vị và điều hoà các vị thuốc. Toàn phương có công hiệu kiện tỳ táo thấp, thanh nhiệt hoá đàm và trừ phiền an tâm. Nếu nhiều đàm và có màu vàng có thể gia Hoàng cầm 19g, Tang bạch b́ 12g, để thanh phế hoá đàm.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu chứng rối loạn nhịp tim do thuỷ khí xâm phạm tim như thế nào?
Biện chứng các điểm chính yếu của chứng rối loạn nhịp tim do thuỷ khí xâm phạm tim là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu của rối loạn nhịp tim do thuỷ khí xâm phạm tim là:
1/ Thuỷ khí xâm phạm tim thường do tâm dương hư, thuỷ khí tràn lên lên gây ra bệnh.
2/ Có đủ chứng trạng chủ yếu của thuỷ khí xâm phạm tâm như hồi hộp, lồng ngực khó chịu.
3/ Phù thũng, ho, khạc thổ ra đàm trắng lỏng.
4/ Xuất hiện thận dương hư có thể thấy tiểu tiện bất lợi, da thịt máy động.
5/ Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng nhờn, mạch trầm huyền.
6/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn của nhịp tim.
Chứng rối loạn nhịp tim do thuỷ khí xâm phạm tạng tâm, là tỳ hư dương của trung tiêu không đầy đủ, ẩm đ́nh trệ ở dưới tim gây ra. Nguyên tắc điều trị là chấn hưng tâm dương, hoá khí hành thuỷ. Dùng phương Linh quế truật cam thang ({Kim Quỹ Yếu Lược}): Phục linh 15g, Quế chi 12g, Bạch truật 15g, Cam thảo 6g. Trong phương Phục linh là quân dược kiện tỳ thấm thấp, khứ đàm hoá ẩm. Quế chi là thần, ôn dương hoá khí, đă có thể ôn dương hoá ẩm, lại có thể hoá khí lợi thuỷ; Phối ngẫu với Phục linh, một lợi một ôn, đối với thuỷ ẩm lưu trệ thiên về hàn tính th́ tác dụng ôn hoá thấm lợi thật là vi diệu, Bạch truật là tá dược kiện tỳ táo thấp, hỗ trợ tạng tỳ vận hoá, thuỷ thấp sẽ tự trừ. Cam thảo là sứ dược ích khí hoà trung, toàn phương có công dụng kiện tỳ khứ đàm, chấn hưng tâm dương và hoá khí hành thuỷ.
Nếu thận dương không thể chế ngự thuỷ, xuất hiện chứng trạng ho suyễn, không thể nằm ngửa, tiểu tiện bất lợi, chi thể phù thũng khá nặng, nên dùng phép ôn dương lợi thuỷ để an tâm. Dùng phương Chân vơ thang ({Thương Hàn Luận}): Pháo Phụ tử 15g, Bạch truật 15g, Phục linh 20g, Bạch thược 12g. Sinh khương 10g.
Hoặc có thể kết hợp Linh quế truật cam thang với Chân vơ thang, để tăng cường công dụng ôn thận dương, hoá khí hành thuỷ.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu chứng rối loạn nhịp tim do hàn ngưng trệ trong tâm mạch như thế nào?
Biện chứng các điểm chính yếu của chứng rối loạn nhịp tim do hàn ngưng trệ trong tâm mạch là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu của rối loạn nhịp tim do hàn ngưng trệ trong tâm mạch là:
1/ Đột nhiên vùng trước tim đau thắt lại, đau từ ngực sang lưng, và từ lưng sang tim.
2/ Thân thể lạnh, sợ lạnh, xuất mồ hôi lạnh, hồi hộp thở ngắn.
3/ Khí hậu lạnh lẽo dễ phát bệnh.
4/ Rêu lưỡi trắng, mạch khẩn.
5/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn của nhịp tim.
Rối loạn nhịp tim do hàn ngưng trệ trong tâm mạch, trên phương diện trị liệu nên nắm vững đặc điểm hàn lănh ngưng trệ trong ngực, huyết vận hành thất thường. Do đó trị pháp là: Khứ hàn hoạt huyết, tuyên tí thông dương. Dùng phương Đương quy tứ nghịch thang ({Thương Hàn Luận}): Đương quy 15g, Quế chi 15g, Bạch thược 12g, Tế tân 6g, Cam thảo 10g, Thông thảo 10g, Đại táo 10g.
Dùng Quế chi, Tế tân để tán hàn, thông dương giảm đau; Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết hoạt huyết; Bạch thược kết hợp với Cam thảo có thể hoăn cấp giảm đau; Thông thảo nhập kinh thông mạch, Đại táo kiện tỳ hoà doanh. Toàn phương có công dụng khứ hàn hoạt huyết, thông dương giảm đau.
Nếu đau kịch liệt, đau từ tim thấu sang lưng, đau từ lưng thấu sang tim, có thể dùng Ô đầu Xích thạch chi hoàn: Ô đầu 12g, Phụ tử 12g, Thục tiêu (Xuyên tiêu) 6g, Can khương 10g, Xích thạch chi 15g. Dùng làm thuốc thang sắc uống.
Nếu hàn lănh gây tổn thương dương khí xuất hiện hiện tượng dương hư, có thể trên cơ sở Ô đầu Xích thạch chi hoàn tái gia các dược phẩm ích khí ôn dương như Hoàng kỳ, Nhục quế, Giới bạch, Tế tân…

Nguyên tắc điều trị và điều trị như thế nào chứng rối loạn nhịp tim do đàm loăng (ẩm) đ́nh trệ trong ngực sườn?
Biện chứng các điểm chính của chứng rối loạn nhịp tim do đàm loăng đ́nh trệ trong ngực sườn là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu đó là:
1/ Ngực sườn trướng đầy, hô hấp cấp xúc (ngắn và gấp), khi ho ngực sườn bị đau.
2/ Nếu bệnh nghiêm trọng th́ xuất hiện hồi hộp, ho suyễn bệnh nhân không thể nằm.
3/ Rêu lưỡi trắng, mạch trầm huyền hoặc kết đại.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn của nhịp tim.
Đàm loăng đ́nh trệ trong ngực sườn, phép điều trị chủ yếu là khứ trừ nước và đàm loăng. V́ thế trị pháp được sử dụng là công trục thuỷ ẩm, lợi thuỷ an thần. Dùng Đ́nh lịch đại táo tả phế thang ({Kim Quỹ Yếu Lược}): Đ́nh lịch tử 12g, Đại táo 12g, Hương phụ 10g, Toàn phú hoa 10g, Tô tử sương 12g, Ư rĩ nhân 20g, Bán hạ 10g, Phục linh 15g, Trần b́ 12g. Trong phương Đ́nh lịch tả phế hành thuỷ, Đại táo bổ trung, khiến cho thuỷ bị trừ khứ nhưng không tổn thương chính khí, Hương phụ, Toàn phú hoa thông vào lạc mạch của gan để trừ khứ thuỷ ẩm ở dưới sườn; Tô tử, Hạnh nhân hạ khí của tạng phế để hoá đàm loăng; Trần b́, Bán hạ, Phục linh, Ư rĩ lư khí hoá ẩm thấm thấp, mà khiến chứng hồi hộp, chứng ngực sườn trướng muộn biến chuyển tốt hoặc bị tiêu trừ. Hai phương này dùng trị chứng rối loạn nhịp tim kèm theo suy tim, gan sưng lớn, thu được hiệu quả lâm sàng khá tốt.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào đối với chứng rối loạn nhịp tim do thực phẩm đ́nh trệ trong dạ dày?
Biện chứng yếu điểm của chứng rối loạn nhịp tim do thực phẩm đ́nh trệ trong dạ dày là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu đó là:
1/ Ăn uống không tiết độ, có tiền sử ăn uống quá nhiều.
2/ Bụng trướng đau, đại tiện không thuận lợi.
3/ Hồi hộp, đau vùng trước tim.
4/ Rêu lưỡi nhầy, mạch hoạt hoặc kết đại.
5/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn của nhịp tim.

Điều trị chứng rối loạn nhịp tim do thực phẩm đ́nh trệ trong dạ dày, chủ yếu là trừ khứ thực phẩm tích trệ. Dùng trị pháp: Tiêu tích hoá trệ, hoà vị an tâm. Dùng phương Bảo hoà hoàn ({Đan Khê Tâm Pháp}): Thần khúc 15g, Sơn tra 20g, Phục linh 15g, Bán hạ 15g, Trần b́ 12g, Lai phục tử 12g, Liên kiều 10g. Trong phương dùng vị Sơn tra tiêu trừ tất cả ẩm thực tích trệ, nhất là thực phẩm tích trệ là thịt và dầu mỡ. Thần khúc tiêu thực kiện kỳ, tiêu tích trệ là rượu là thực phẩm đă qua đêm. Lai phục tử hạ khí, tiêu tích trệ là ngũ cốc. Bán hạ, Trần b́, hành khí hoá trệ, điều hoà dạ dày trị chứng ẩu thổ. Phục linh kiện tỳ hoà trung trị tiêu chảy; V́ thực phẩm tích trệ rất dễ hoá nhiệt, dùng vị Liên kiều có tác dụng thanh nhiệt tán kết. Kết hợp các vị thuốc khiến thực tích được hoá, vị khí được hoà. Gia Thạch xương bồ 10g, Toan táo nhân 12g, Dạ giao đằng 20g, để khai khiếu an tâm, khiến thực phẩm đ́nh trệ bị khứ trừ, tâm được an.
Nếu chứng thực phẩm đ́nh trệ nặng, gây trằn trọc khó ngủ, hồi hộp, bụng trướng, có thể dùng thang Điều vị thừa khí ({Thương Hàn Luận}): Mang tiêu 10g, Đại hoàng 10g, Cam thảo 6g. Có tác dụng công hạ tích trệ, điều khí an tâm. Nếu đau từ ngực thấu sang lưng, đau lưng thấu sang ngực, lồng ngực phiền muộn bế tắc, gia Qua lâu 20g, Đan sâm 15g, Nguyên hồ 12g, Chỉ thực 12g. Để khai bế thông dương, hoạt huyết hoá ứ.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào đối với chứng rối loạn nhịp tim do can uất hoá hoá?
Các điểm biện chứng chính yếu của chứng rối loạn nhịp tim do can uất hoá hoả là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu đó là:
1/ Hồi hộp phiền muộn
2/ Vội vă dễ tức giận, ngực sườn trướng đầy, mắt đỏ miệng đắng.
3/ Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn của nhịp tim.

Chứng rối loạn nhịp tim do can uất hoá hoả, điều trị nên trực chiết hoả thế (bẻ gẫy thế lực của hoả) là dùng vị thuốc khổ hàn trực tiếp trị liệu nhiệt chứng, dùng trị pháp sơ tiết can tiết nhiệt, trấn tâm an thần. Dùng Long đảm tả can thang ({Lan thất bí tàng}) gia vị: Long đảm thảo 10g, Chi tử 10g, Hoàng cầm 10g, Sài hồ 12g, Sinh địa 15g, Xa tiền tử 12g, Trạch tả 10g, Mộc thông 10g, Đương quy 15g, Cam thảo 6g, Chu phục thần 12g, Long cốt 20g, Thạch quyết minh 20g. Trong phương có vị Long đảm thảo tả thực hoả của can và đảm, Hoàng cầm, Chi tử tả hoả của tâm phế, Trạch tả, Mộc thông, Xa tiền tử thanh nhiệt lợi thấp, khiến thấp nhiệt theo nước xuất ra ngoài. Đương quy, Sinh địa tư âm dưỡng huyết, khiến cho việc tả hoả không tổn thương âm huyết. Sài hồ dẫn các vị thuốc nhập vào can đảm để tán uất hoả, Cam thảo điều hoà trung tiêu. Toàn phương có công hiệu điều tiết can tả nhiệt. Gia thêm Chu phục thần, Long cốt, Thạch quyết minh để trấn tâm an thần, tiêu trừ sợ hăi, mà có công hiệu sơ tiết can tả nhiệt, trấn kinh an thần trị sợ hăi.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào chứng rối loạn nhịp tim do tâm hoả quá mạnh?
Biện chứng các điểm chính chứng rối loạn nhịp tim do tâm hoả quá mạnh là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu đó là:
1/ Mất ngủ hay mơ, hồi hộp lo âu.
2/ Mắt đỏ, miệng đắng, miệng lưỡi bị mọc mụn, lở loét.
3/ Đầu lưỡi hồng, mạch sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn của nhịp tim.
Rối loạn nhịp tim do tâm hoả quá mạnh chủ yếu là do tâm hoả gây ra. Nên nguyên tắc điều trị là thanh tâm tả hoả, trấn tâm an thần. Dùng phương Đạo xích tán ({Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết}) gia vị: Sinh địa 15g, Mộc thông 10g, Đạm trúc diệp 10g, Cam thảo 10g, Hoàng liên 10g, Khổ sâm 10g, Thạch quyết minh 20g. Trong phương có Sinh địa tư âm mát máu để khống chế tâm hoả, Mộc thông thanh nhiệt ở kinh tâm, lợi tiểu tiện khiến tâm hoả theo tiểu tiện xuất ra ngoài, Cam thảo có thể thanh nhiệt giải độc, để điều hoà các vị thuốc. Việc gia thêm Hoàng liên, Khổ sâm đều có thể thanh tâm tả hoả, an tâm ngừng hồi hộp; Thạch quyết minh, Long xỉ trấn tâm an thần. Toàn phương có công hiệu thanh tâm tả hoả, trấn tâm an thần, an tâm trị hồi hộp.
Nếu thiên về ngủ kém hồi hộp, gia Táo nhân 12g, Dạ giao đằng 20g, Bá tử nhân 12g, để dưỡng tâm an thần.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào đối với chứng rối loạn nhịp tim do tâm thận bất giao*?
Biện chứng các điểm chính yếu của chứng rối loạn nhịp tim do tâm thận bất giao là ǵ?
Các điểm biện chứng chính yếu đó là:
1/ Hồi hộp hay quên, tâm phiền mất ngủ.
2/ Vựng đầu, ù tai, ngũ tâm phiền nhiệt (nóng khó chịu), eo gối đau mỏi.
3/ Lưỡi hồng tươi ít rêu, mạch tế sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn của nhịp tim.
Rối loạn nhịp tim tâm thận bất giao là tâm hoả không thể hạ xuống, thận thuỷ không thể dâng lên, thuỷ hoả không được việc mà thành bệnh, v́ thế nguyên tắc điều trị chính là giao thông tâm thận, an tâm trị hồi hộp. Dùng phương Giao thái hoàn ({Y Phương Tập Giải}): Hoàng liên 10g, Nhục quế 5g. Trong phương có Hoàng liên thanh tâm giáng hoả, Nhục quế số lượng ít hơn làm tá dược để dẫn hoả quy nguyên (về nguồn). Khiến tâm hoả hạ xuống, , thận thuỷ ấm áp liền dâng lên, thuỷ hoả được việc, tâm thận giao thông mà có thể khiến tâm an không hồi hộp. Đồng thời c̣n có thể gia thêm Dạ giao đằng 20g, Toan táo nhân 12g, Phục thần 15g, để dưỡng tâm an thần.
Nếu tâm thận bất giao thiên về tâm âm hư th́ có thể dùng thêm Thiên vương bổ tâm đan; Nếu thiên về thận âm hư, th́ có thể dùng thêm Lục vị địa hoàng hoàn.

Nguyên tắc điều trị và trị liệu như thế nào chứng rối loạn nhịp tim do âm hư dương kháng?
Biện chứng yếu điểm của chứng rối loạn nhịp tim do âm hư dương kháng là ǵ?
Những điểm biện chứng chính yếu là:
1/ Vựng đầu hồi hộp, mắt sáp rít, hoa mắt.
2/ Bực bội hay mơ, ít ngủ, ḷng bàn tay bàn chân nóng.
3/ Lưỡi hồng, ít rêu lưỡi, mạch tế sác.
4/ Điện tâm đồ cải biến theo rối loạn của nhịp tim.

Rối loạn nhịp tim âm hư dương kháng do âm dương mất điều hoà thăng bằng gây ra. V́ thế nguyên tắc điều trị chính là: tư âm tiềm dương, ninh tâm an thần. Dùng phương Lục vị địa hoàng hoàn ({Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết}) gia vị: Thục địa 15g, Đan b́ 10g, Sơn thù 12g, Sơn dược 10g, Phục linh 12g, Trạch tả 10g, Cúc hoa 10g, Quy bản giao 12g, Thạch quyết minh 20g, Long cốt 20g, Mẫu lệ 20g.. Trong phương thang có Thục địa tư bổ thận âm, ích tinh tuỷ; Sơn thù vị chua ấm bổ thận ích can, Sơn dược tư thận bổ tỳ, Trạch tả loại bỏ uế trọc trong thận (tả thận giáng trọc), Đan b́ loại bỏ hoả của gan (tả can hoả), Phục linh khứ trừ ẩm thấp ở tạng tỳ (Thấm thấp), Dùng kết hợp 6 vị thuốc vừa nêu, ba vị bổ, ba vị tả (bỏ bớt), chú trọng chủ yếu là bổ thận âm. Gia thêm Quy bản giao tư bổ âm, Cúc hoa, Thạch quyết minh, Long cốt, Mẫu lệ để b́nh can tiềm dương, trấn tâm an thần. Để thận âm được bồi bổ, can dương được b́nh thường, như vậy chứng hồi hộp có thể được hoăn giải.

Các phương thang kinh nghiệm YHCT trị liệu chứng tim đập nhanh do rối loạn nhịp tim là ǵ ?
YHCT có khá nhiều phương đơn giản và kinh nghiệm để điều trị chứng rối loạn nhịp tim, các phương thường dùng gồm:
1/ Khổ sâm 20g, sắc uống, mỗi ngày 1 thang, liệu tŕnh là 1 tuần. Trên lâm sàng dùng phương này trị chứng tâm quư** và mạch sác.
2/ Khổ sâm chế tễ: Khổ sâm 20g, Ích mẫu thảo 20g, chích Cam thảo 15g, sắc nước uống, mỗi ngày 1 tễ, mỗi tễ sắc 2 lần, liệu tŕnh là 1 tuần. Thích hợp với những bệnh nhân tâm quư mạch sác.
3/ Định tâm thang: Long nhăn nhục 30g, Toan táo nhân 15g, Sơn du nhục 15g, sao Bá tử nhân 12g, sinh Long cốt 20g, sinh Mẫu lệ 20g, sinh Nhũ hương 3g, sinh Một dược 3g, sắc uống, mỗi ngày 1 thang, mỗi thang sắc 2 lần. 10 ngày là một liệu tŕnh. Trên lâm sàng dùng cho bệnh nhân tâm quư, chinh xung (lo âu vô cớ), kinh hăi bất an.
4/ Dưỡng tâm trấn kinh thang: Bạch mao căn 15g, Thiên trúc hoàng 9g, Long cốt 20g, Mẫu lệ 20g, Câu đằng 12g, Nhẫn đông đằng 12g, Phục thần 15g, Từ thạch 15g, sinh Bạch thược 15g, Chu sa 3g, Thạch xương bồ 10g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang, mỗi thang sắc 2 lần, 10 ngày là một liệu tŕnh. Trên lâm sàng dùng cho chứng tâm quư bất an do kinh hăi gây ra.
5/ Hồi tâm thảo tươi 30g hoặc khô 6g, gia thêm đường phèn lượng vừa đủ, sắc uống, mỗi ngày 1 thang, 15 ngày là 1 liệu tŕnh, có thể cách 2,3 ngày sau lại tiếp tục uống, thường dùng liên tục 2,3 liệu tŕnh. Trên lâm sàng dùng để điều trị các loại nguyên nhân gây ra chứng tâm quư.
Các nghiên cứu về các loại thảo mộc đơn độc trong y học cổ truyền để điều trị rối loạn nhịp tim là ǵ?
Trong những năm gần đây, đă có nhiều nghiên cứu về tác dụng chống rối loạn nhịp tim của các vị thuốc đơn độc trong y học cổ truyền, theo nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu thực nghiệm trên động vật cho thấy các vị thuốc có tác dụng chữa rối loạn nhịp tim khác nhau bao gồm:
Thuốc có hiệu quả đối với tất cả các loại nhịp đập sớm:
Nhịp thất sớm – Sơn tra, Hoàng liên, Nhân trần, Thường sơn, Vạn niên thanh, Khổ cam thảo, Bán hạ, Khổ sâm, Khương hoạt.
Nhịp sớm nhĩ – Nguyên hồ sách, Sơn tra, Hán pḥng kỷ, Hoàng liên tố, Nhân trần, Thường sơn, Vạn niên thanh, Bán hạ, Khổ sâm.
Nhịp đập sớm – – Nguyên hồ sách, Thường sơn, Sơn tra
Rung tâm nhĩ——Sơn tra, Hán pḥng kỷ, Vạn niên thanh, Cam tùng, Nguyên hồ sách, Thường sơn, Thạch xương bồ, Nhân trần.
Blốc nhĩ thất —-Phụ tử, Nhân sâm.
Nhịp tim nhanh trên thất—-Thường sơn, Vạn niên thanh, Pḥng kỷ.
Nhịp nhanh thất kịch phát —-Vạn niên thanh, Thường sơn.
Nhịp tim chậm xoang —-Nhân sâm, Ma hoàng, Phụ tử.

Đặc điểm của việc dùng thuốc Đông y chữa rối loạn nhịp tim ở người già là ǵ, cách lựa chọn bài thuốc như thế nào?
Rối loạn nhịp tim ở người cao tuổi phần lớn là do khí và huyết không đủ, âm dương suy hư, khí hư huyết ứ, đàm ứ ngăn trở lạc mạch gây ra. Các triệu chứng thiếu hụt và hư tổn thường gặp hơn trong các biểu hiện lâm sàng. Do đó, trong điều trị của y học cổ truyền, các nguyên tắc Bổ ích khí huyết, dưỡng âm, bổ dương là các loại phương pháp được dùng để điều trị bệnh.
Thuốc YHCT điều trị rối loạn nhịp tim ít độc hại và tác dụng phụ, an toàn hơn nhưng tác dụng chậm, cần dùng lâu dài mới thấy hiệu quả.
1/ Nhịp nhanh xoang: Thường dùng phương pháp tư âm bổ thận, dưỡng huyết an thần ninh tâm. Trên lâm sàng thường dùng Thiên vương bổ tâm đan ({Nhiếp Sinh Bí Phẫu}): Sinh địa 15g, Nhân sâm 6g, Đan sâm 15g, Huyền sâm 10g, Phục linh 15g, Ngũ vị tử 10g, Viễn chí 6g, Cát cánh 6g, Đương quy thân 15g, Thiên đông 15g, Mạch đông 15g, Bá tử nhân 15g, Toan táo nhân 12g.
2/ Loạn nhịp tim: Nhịp chậm xoang, blốc nhĩ thất và blốc xoang nhĩ, v.v., kết hợp với các triệu chứng lâm sàng, thường dùng các phương pháp như: Ôn thông tâm dương, ôn bổ thận dương để điều trị bệnh.
Ôn thông tâm dương dùng:
① Quế chi thang ({Thương Hàn Luận}): Quế chi 15g, Bạch thược 10g, Đại táo 10g, Sinh khương 10g
②Ma hoàng phụ tử tế tân thang ({Thương Hàn Luận}):Ma hoàng 10g, Phụ tử 15g, Tế tân 6g.
③ Tứ nghịch thang({Thương Hàn Luận}):Phụ tử 15g, Can khương 10g, Cam thảo 10g.
Ôn bổ thận dương dùng: ①Hữu quy ẩm ({Cảnh Nhạc Toàn Thư}): Thục địa 12g, Sơn dược 12g, Kỷ tử 15g, Sơn thù 10g, Phụ tử 15g, Nhục quế 10g, Đỗ trọng 12g, Cam thảo 10g.
②Thận khí hoàn ({Kim Quỹ Yếu Lược}): Thục địa hoàng 12g, Sơn dược 12g, Sơn thù 10g, Trạch tả 10g, Đan b́ 10g, Phục linh 15g, Quế chi 15g, Phụ tử 15g.
Lộc nhung 3g, mỗi ngày 1 lần, 3 ngày là 1 liệu tŕnh, hai liệu tŕnh cách nhau từ 7~10 ngày, có thể ứng dụng liên tục từ 3~4 liệu tŕnh. Có tác dụng bổ thận dương, bổ hoả ở mệnh môn cực tốt.
3/ Các loại nhịp đập sớm: Thường dùng phép song bổ khí huyết để điều trị. Các phương thang như: ① Chích Cam thảo thang({Thương Hàn Luận}): Chích Cam thảo 12g, Quế chi 10g, Mạch đông 12g, Sinh địa 12g, Ma nhân 12g, Đại táo 10g, A giao 15g, Hồng sâm 10g.
Thập toàn đại bổ ({Hoà Tễ Cục Phương}) gia vị: Hoàng kỳ 20g, Nhục quế 10g, Đương quy 12g, Xuyên khung 10g, Bạch thược 12g, Thục địa 12g, Nhân sâm 6g, Phục linh 15g, Bạch truật 15g, chích Cam thảo 12g, Khổ sâm 10g.
③Sinh mạch ẩm({Nội Ngoại Thương Biện Cảm luận}): Nhân sâm 10g, Mạch đông 15g, Ngũ vị tử 10g.
4/ Rối loạn nhịp tim có chứng trạng huyết hư huyết ứ thường tuyển dụng các phương thang như:
①Đào hồng tứ vật thang({Y Tông Kim Giám}): Đào nhân 10g, Hồng hoa 6g, Đương quy vĩ 15g, Xích thược 10g, Sinh địa 10g, Xuyên khung 10g.
②Huyết phủ trục ứ thang ({Y Lâm Cải Thác}): Đương quy 12g, Sinh địa 12g, Hồng hoa 6g, Đào nhân 10g, Chỉ xác 12g, Ngưu tất 10g, Xuyên khung 19g, Sài hồ 10g, Xích thược 12g, Cát cánh 6g.
Thất tiếu tán ({Thái b́nh Huệ dân hoà tễ cục phương}): Bồ hoàng 10g, Ngũ linh chi 12g.

Sử dụng đông dược điều trị chứng rối loạn nhịp tim ở người cao tuổi nên chú ư những ǵ?
1/ Rối loạn nhịp tim, bệnh biến có tính khí chất.
Rối loạn nhịp tim ở người cao tuổi, phần lớn là do bệnh biến có tính khí chất (cơ học) của tạng tâm như bệnh mạch vành tim, bệnh cơ tim, phong tâm bệnh (thấp tim ?) Trên phương diện điều trị, mức độ khó của bệnh là khá cao, trong một thời gian ngắn khó thu được hiệu quả. V́ thế khi tuyển chọn đông dược để điều trị bệnh, không nên ngừng các loại tây dược đang sử dụng, tốt nhất là sau khi sử dụng đông dược một thời gian, có cảm giác chứng trạng giảm thiểu, giảm nhẹ rơ rệt như khi chỉ sử dụng đơn thuần tây dược th́ có thể nghĩ đến giảm dần lượng tây dược, sau cùng đạt được mục đích là ngừng sử dụng tây dược. Trong thời gian sử dụng đông dược nên định kỳ kiểm tra bằng điện tâm đồ, để tiện so sánh với thời gian trước khi sử dụng đông dược. Như vậy có lợi cho việc quan sát hiệu quả, để quyết định giảm hoặc ngưng sử dụng tây dược.
2/ Mất điều hoà âm dương, khí hư huyết ứ, tỳ hư đàm trọc, hư nhiều thực ít
YHCT cho rằng “ Con người ở tuổi 40, âm khí c̣n một nửa”, “Tám tám (64 tuổi) thận khi suy” “人年四十,阴气自半”、“八八(六十四岁)肾气衰”(Nhân niên tứ thập, âm khí tự nán, (Bát bát (lục thập tứ tứ tuế) thận khí suy).Đồng thời các tạng phủ khác cũng nối tiếp nhau xuất hiện chứng trạng suy thoái. V́ thế, chứng rối loạn nhịp tim ở người già, phần lớn là thuộc hư chứng. V́ thế khi sử dụng đông dược trị liệu thường dùng phần nhiều là các loại thuốc bổ ích.
①Hội chứng tâm thận dương hư khá nổi bật: Người già thận khí không c̣n đầy đủ, v́ thế người già bệnh lâu ngày thận khí hư suy, không thể ôn nhuận ngũ tạng một cách b́nh thường, cũng không thể làm ấm áp tâm dương. V́ thế phần nhiều là khí và dương của tâm thận hư suy mà có những biểu hiện như trống ngực, thở ngắn, lồng ngực khó chịu, tinh thần sa sút, sợ lạnh… Trên phương diện trị liệu nên chú ư nhiều đến các vị thuốc bổ ích tâm khí và thận khí.
②Khí hư dẫn đến huyết ứ: Gốc của tâm ở thận, dương khí của tâm thận không đầy đủ, không đủ lực thúc đẩy huyết tuần hoàn, dương hư sinh hàn, hàn làm ngưng sáp huyết dịch cũng khiến cho huyết vận hành không thông sướng, khiến cho chất lưỡi ảm đạm, tím tối hoặc có ứ ban ứ điểm, mạch cũng xuất hiện trầm sáp hoặc tế huyền. Đồng thời xuất hiện lồng ngực đau khó chịu hoặc đau nhói, điểm đau cố định.. Xuất hiện những biểu hiện lâm sàng vừa nêu, nên căn cứ theo biểu hiện của hội chứng để hoặc dùng chủ yếu là hoạt huyết hoá ứ hoặc ích khí hoạt huyết, hoặc ôn dương khứ hàn hoạt huyết .v…Để cho dương hồi phục, tán hàn lănh, hoá ứ để hoạt huyết.
③ Tỳ hư đàm trọc nội trở : V́ thận hư nên tỳ dương không đầy đủ, công năng vận hoá không điều hoà, tinh vi thuỷ cốc không thể hấp thu và vận hoá b́nh thường, nên khiến tinh tụ thành đàm, nghẽn tắc thanh khiếu, mà xuất hiện chán ăn, bụng trướng, ho thổ đàm đục, rêu lười dày và nhờn…. Ăn uống không cẩn thận kỹ lưỡng một chút là có thể phát tác cơn đau ngực hồi hộp, khi điều trị bệnh phương cách chủ yếu là kiện tỳ hoá trọc khứ đàm cũng chính là trừ khứ bệnh và an tâm tạng.
④Tinh của Thận không đầy đủ, bổ tỳ tư (thêm) thận: Người già 64 tuổi thận khí suy (“八八肾气衰”), thận tinh không đầy đủ rất rơ rệt, mà xuất hiện tai điếc, ù tai, đầu óc không minh mẫn, huyễn vựng, eo gối đau mỏi, trống ngực thở ngắn. Đông y cho rằng “Tinh không đầy đủ th́ dùng vị để bồi bổ”, “Tạng tỳ là căn bản của hậu thiên”.“精不足者,补之 以味”,“脾为后天之本”(Tinh bất túc bổ chi dĩ vị). (Tỳ vi hậu thiên chi bản). V́ thế , khi điều trị chứng rối loạn nhịp tim loại h́nh thận tinh không đầy đủ, việc tuyển chọn các vị thuốc có vị nồng hậu để bổ thận điền tinh, kiện tỳ tư thận cũng chính là nguyên tắc điều trị quan trọng. Bồi bổ hậu thiên để ích lợi cho tiên thiên, dùng các phương như Sâm linh bạch truật tán, Lục quân tử thang, Bổ trung ích khí thang để có thể tuỳ nghi tuyển dụng, đồng thời gia thêm các vị thuốc bồi bổ thận tinh, đó là cách biến điều b́nh thường thành điều kỳ diệu.
5/ Can khí uất trệ, khí cơ không thông sướng: Người cao tuổi do bị bệnh lâu ngày, và nhiều nguyên nhân khác như sau khi nghỉ hưu tâm lư mất thăng bằng, gia đ́nh, con cái…. Thường bị nội thương do thất t́nh (cảm xúc) do những t́nh huống đa sầu, đa cảm mà xuất hiện can khí ức uất, điều đạt (thư sướng không bị câu thúc) thất thường, ảnh hưởng sự thăng giáng của khí, mà tổn hại đến tâm thận, làm cho mạch lạc bị nghẽn trệ, khí của kinh mạch tuần hành không thông sướng mà xuất hiện rối loạn nhịp tim, hoặc tăng nặng rối loạn nhịp tim. V́ thế, khi điều trị bệnh, ngoại trừ việc sử dụng đông dược theo nguyên tắc sơ tiết can giải uất, điều đạt khí cơ, tuyển dụng các phương tễ như Tiêu dao tán, Sài hồ sơ can tán, Tứ nghịch tán cần chú ư đến tâm lư trị liệu. Cần hướng dẫn bệnh nhân đối diện hiện thực, bỏ qua những ǵ phức tạp, giữ tinh thần điềm đạm hư vô, để tận hưởng tuổi trời.

Tác dụng chống loạn nhịp tim và chỉ định của Vạn niên thanh là ǵ?
Vạn niên thanh là thân rễ và rễ của cây họ thực vật Bách hợp Vạn niên thanh.
Tính vị quy kinh: Vị cay, đắng, hơi lạnh. Nhập vào kinh phế.
Công hiệu: Cường tâm lợi tiểu, thanh nhiệt giải độc, cầm máu.
Ứng dụng trên lâm sàng: Lâm sàng dùng để điều trị tâm lực suy kiệt, thuỷ thũng và cổ họng sưng đau, khạc ra máu, thổ ra máu v.v…
Nghiên cứu hiện đai: Vạn niên thanh chứa tổng số Vạn niên thanh tổng kiềm (hỗn hợp của Vạn niên thanh glycoside A, B, C, v.v.). Sử dụng glycoside tổng số của nó để điều trị nhịp đập sớm, nhịp tim nhanh kịch phát và rung nhĩ, quan sát lâm sàng cho thấy hiệu quả tốt hơn.
Cơ chế hoạt động của Vạn niên thanh có thể kéo dài thời gian bất ứng kỳ (khắc nghiệt) tuyệt đối của cơ tim, giảm căng thẳng, ức chế kích thích ngoại tâm thu của tim, và có sự chậm trễ nhất định trong quá tŕnh dẫn truyền của tim. Do đó, hệ thống dẫn truyền của tim có thể được điều chỉnh để làm cho nó hoạt động b́nh thường. Đối với nhịp đập sớm, nhịp nhanh xoang, nhịp nhanh kịch phát trên thất, rung nhĩ.
Chuẩn bị: Thuốc tiêm, 2 ml mỗi ống, chứa 2,2 mg glucoside tổng số của Vạn niên thanh.
Chức năng và công dụng: Tăng cường sức co bóp cơ tim, làm giăn mạch vành, làm chậm nhịp tim, có tác dụng lợi tiểu. Đối với suy tim và rối loạn nhịp tim như rung nhĩ.
Cách dùng và liều lượng: tiêm bắp, mỗi lần 1 đến 2 ml. Tiêm tĩnh mạch: mỗi lần 1 đến 4 ml, pha loăng với dung dịch glucose 10% đến 25% và tiêm chậm. Uống: 0,1g một lần, 3 đến 4 lần một ngày.
Độc tính và tác dụng phụ: chủ yếu tạo ra các triệu chứng blốc nhĩ thất và hệ tiêu hóa. Đôi khi thấy ngoại tâm thu thất, nhịp nhanh thất, nhịp chậm rơ rệt và blốc nhĩ thất. V́ vậy, những bệnh nhân bị bệnh thấp tim, viêm cơ tim không nên sử dụng.

Những tác dụng và chỉ định của Khương hoạt chống loạn nhịp tim là ǵ?
Khương hoạt là thân rễ và rễ của loại thảo mộc lâu năm Khương hoạt Khoan diệp và cùng một chi Khương hoạt lá rộng hoặc Xuyên Khương hoạt.
Tính và vị quy kinh : Vị đắng, tính ấm. Quy kinh mạch bàng quang và thận.
Hiệu quả: Giải biểu tán hàn, khứ phong thắng thấp, giảm đau.
Ứng dụng lâm sàng: (1) Trị ngoại cảm phong hàn, ghét lạnh cảm sốt, nhức đầu và đau người. (2) Trị chân tay đau nhức do tác nhân gây bệnh phong hàn, ẩm thấp.
Nghiên cứu hiện đại: Nghiên cứu từ Viện Lư thuyết cơ bản của Y học Cổ truyền Trung Quốc, Học viện Y học Cổ truyền Trung Quốc cho thấy rằng loại thuốc này có thể làm giảm tính hưng phấn và tính tự chủ của cơ tim, đồng thời cũng có tác động nhất định đến Na +-K + -ATPase trên cơ màng tế bào cơ tim. Các báo cáo ứng dụng lâm sàng cho thấy rằng nó thích hợp cho bệnh tim mạch vành và thất nhịp sớm do không rơ nguyên nhân; Nó cũng có tác dụng tốt đối với những cơn co thắt tâm thất sớm do chứng nhồi máu cơ tim trước đây.

Những tác dụng và chỉ định của Nhân trần chống loạn nhịp tim là ǵ?
Nhân trần là cây con của cây Nhân trần lâu năm, một loại thảo mộc lâu năm thuộc họ Cúc.
Tính vị quy kinh: Vị đắng, hơi lạnh, nhập các kinh tỳ, vị, can và đảm.
Công hiệu : Thanh lợi thấp nhiệt, trị chứng vàng da.
Ứng dụng lâm sàng: Chủ yếu dùng vào bệnh vàng da, thứ yếu là có thể dùng trị chứng thấp chẩn ngứa ngoài da. Có công hiệu thanh nhiệt lợi thấp trừ vàng da.
Nghiên cứu hiện đại: Cây con Nhân trần bỏ rễ, hoa và quả của họ Cúc chứa 6,7-dimethoxycoumarin (Scopa-ron), tức là escin, có tác dụng hạ huyết áp nhẹ và chống rung thất trên thực nghiệm. Nó có thể làm tăng đáng kể lưu lượng mạch vành ở những con thỏ rung thất bị cô lập và phục hồi sự co bóp nhịp nhàng. Nó có thể được sử dụng để điều trị nhiều cơn co thắt tâm nhĩ và thất sớm.
Theo kinh nghiệm dùng thuốc lâm sàng của tác giả, người ta thấy rằng liều lượng lớn Nhân trần (20-30g) có thể làm thuyên giảm bệnh thấp tim và rung nhĩ nhanh. Liều lượng chung là 15-20g, và tối đa có thể dùng đến 30g sử dụng phối hợp với phương thang.

Tác dụng chống loạn nhịp tim và chỉ định của Mộc đàn hương là ǵ?
Đàn hương là lơi gỗ khô của cây Đàn hương, một loại cây gỗ nhỏ thuộc họ Đàn hương.
Tính chất và hương vị và quy kinh: Vị cay nồng, tính ấm. Đến các kinh mạch Tỳ, vị và phế.
Hiệu quả: Lư khí điều trung, khứ trừ cảm lạnh và giảm đau.
Ứng dụng lâm sàng: Chủ yếu được dùng chữa các chứng như đau ngực và bụng, đau dạ dày v́ lạnh, nôn ra nước trong. Thứ hai, trong những năm gần đây, sản phẩm này được sử dụng phổ biến trong điều trị bệnh mạch vành tim với chứng khí trệ huyết ứ, có tác dụng thông kinh hoạt lạc, hành khí.
Nghiên cứu hiện đại: Thí nghiệm của Viện y học cổ truyền Sơn Tây đă chứng minh tinh dầu đàn hương có tác dụng đối kháng tốt với chứng loạn nhịp tim do thuốc sắc Tứ nghịch thang và ngộ độc bắc Ngũ gia b́.

Tác dụng chống loạn nhịp tim và chỉ định của nấm Linh chi là ǵ?
Linh chi là một loại nấm lớn. Nó đă có lịch sử hơn 2.000 năm đối với y học cổ truyền và dân gian để điều trị chứng hồi hộp do rối loạn nhịp tim. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy nó có tác dụng tốt trong việc mở rộng động mạch vành, cải thiện lưu thông máu mạch vành và giảm tiêu thụ oxy của cơ tim. Có thể được sử dụng cho bệnh tim mạch vành với rối loạn nhịp tim.

Tác dụng và chỉ định của Thạch xương bồ chống loạn nhịp tim là ǵ?
Theo các báo cáo nước ngoài: Dầu dễ bay hơi của cây thạch xương bồ có thể ức chế nhịp tim của chó và ếch, đồng thời chống lại chứng rung nhĩ do acetylcholine và aconitine gây ra. Tác dụng kéo dài thời gian dẫn truyền và thời gian bất ứng kỳ như tác dụng của quinidin. Có thể được sử dụng cho rung tâm nhĩ.

Tác dụng chống loạn nhịp tim và chỉ định của Thường Sơn là ǵ?
Thường sơn là rễ của cây Hổ nhĩ thảo, một loại cây bụi nhỏ thuộc họ Thảo mộc lạc diệp.
Tính và vị quy kinh lạc: Vị đắng, cay, tính lạnh, có độc. Quy kinh phế, tâm và can.
Công hiệu: tác dụng thổ đàm mạnh, cắt cơn sốt rét.
Ứng dụng lâm sàng: Thường dùng để nôn ra đờm ở ngực và chữa sốt rét.
Nghiên cứu y học hiện đại: Thường sơn là một loại thuốc trị sốt rét của YHCT. Thương Lạc Lâm là một loại thuốc chống loạn nhịp tim được phát triển trong quá tŕnh chuyển đổi cấu trúc của Thường sơn B, thành phần chính của Thường sơn, và nó là loại thuốc đầu tiên thuộc loại này ở nước tôi. Các nghiên cứu thực nghiệm đă chỉ ra rằng nó có thể chống lại chứng loạn nhịp tim thực nghiệm do aconitine và ouabain gây ra, và làm tăng ngưỡng rung thất do kích thích điện ở thỏ và chó. Thuốc có thể làm giảm tính kích thích của cơ tim thất, giảm biên độ của điện thế hoạt động tăng pha 0 (APA) và tốc độ (Vmax), kéo dài thời gian chịu lửa hiệu quả (ERP), và kéo dài khoảng A-H và H-V. Thuốc có tác dụng tốt đối với cơn nhịp nhanh thất kịch phát và các cơn co thắt thất sớm thường xuyên. Nó cũng có tác dụng nhất định đối với các cơn co thắt tâm nhĩ sớm, nhịp tim nhanh kịch phát trên thất và rung nhĩ kịch phát. Nó có hiệu quả điều trị kém đối với nhịp tim sớm và nhịp tim nhanh xoang.
Chuẩn bị: Viên nén, mỗi viên 0,2 gam.
Chức năng và công dụng: Nó được sử dụng cho nhịp nhanh thất kịch phát, nhịp thất sớm thường xuyên và có tác dụng nhất định đối với nhịp sớm nhĩ, nhịp nhanh trên thất kịch phát và rung nhĩ kịch phát.
Liều dùng: Người lớn uống mỗi lần 0,2 gam, ngày 3 đến 4 lần, trẻ em nên giảm bớt. Sau khi kiểm soát được rối loạn nhịp tim, liều duy tŕ được biến đổi thành 0,2 g mỗi lần, ngày 1 đến 2 lần. Bốn tuần là một quá tŕnh điều trị.
Độc tính và tác dụng phụ: 17,8% bệnh nhân dùng sản phẩm này có thể bị biến đổi da màu nâu sẫm và một số ít bị tổn thương chức năng gan và giảm bạch cầu.

Tác dụng chống loạn nhịp tim và chỉ định của Cam tùng là ǵ?
Cam tùng là thân rễ và rễ của họ Bại tương và Cam tùng lá rộng. Cam tùng c̣n được gọi là hiệt thảo.
Tính chất và hương vị và quy kinh: Cay, ngọt, tính ấm. Quy kinh mạch tỳ, vị.
Hiệu quả: Hành khí và giảm đau, tăng cường sinh lực cho chứng khai uất và bổ tỳ.
Ứng dụng lâm sàng: Trị các chứng tức ngực, trướng bụng do lo nghĩ dẫn đến tỳ vị bị tổn thương hoặc khí lạnh ngưng tụ, không muốn ăn, đau vùng thượng vị.
Nghiên cứu y học hiện đại: Cồn Valerian (Hiệt thảo) có tác dụng an thần và thôi miên. Các thí nghiệm đă chỉ ra rằng các chế phẩm khác nhau của cây Hiệt thảo có thể nhanh chóng và hiệu quả đối kháng với các mô h́nh động vật bị rối loạn nhịp tim do aconitine và ouabain gây ra. Việc pḥng ngừa và sử dụng thuốc này vẫn có thể ức chế sự xuất hiện của rối loạn nhịp tim do thuốc gây rung tim, và độc tính và tác dụng phụ khá thấp.
Ứng dụng: Nó có thể được sử dụng cho chứng loạn nhịp tim như rung nhĩ. Liều lượng là 10 đến 12 gam.

Những tác dụng và chỉ định của Diên hồ sách chống loạn nhịp tim là ǵ?
Diên hồ sách là rễ củ của cây thảo sống lâu năm họ anh túc Diên hồ sách. C̣n được gọi là Diên hồ, Huyền hồ sách, Nguyên hồ sách.
Tính chất và vị quy kinh lạc: vị cay, đắng, tính ấm. Quy kinh tâm, can và tỳ.
Hiệu quả: thúc đẩy tuần hoàn máu, giảm đau.
Ứng dụng lâm sàng: Nó là một vị thuốc thường được sử dụng để thúc đẩy lưu thông máu và loại bỏ huyết ứ trong y học cổ truyền. Trị chứng chân tay đau nhức do khí và huyết ứ trệ. Trong những năm gần đây, Huyền hồ được sử dụng phổ biến trong điều trị lâm sàng bệnh mạch vành bằng các vị thuốc hoạt huyết, ích khí, có tác dụng làm giảm các cơn đau thắt ngực và điều trị rối loạn nhịp tim.
Nghiên cứu y học hiện đại: Theo nghiên cứu thực nghiệm, phần tan trong nước của ancaloit là bazơ amin bậc bốn (bazơ I), và phần không tan trong nước là bazơ amin bậc ba (bazơ II). Các thí nghiệm trên động vật đă chứng minh rằng hai thành phần này có thể chống lại các mô h́nh rối loạn nhịp tim thực nghiệm khác nhau tương ứng. Tác dụng của base I trên điện tâm đồ tương tự như tác dụng của acetaminophen; tác dụng của base II trên điện tâm đồ tương tự như tác dụng của quinidine. Bệnh viện Tây Uyển đă sử dụng phương pháp mù đôi để quan sát tác dụng lâm sàng khi tiêm vào tĩnh mạch hai loại thuốc. Nó đă được quan sát lâm sàng rằng cơ sở I có tác dụng tốt hơn đối với nhịp đập sớm thất; cơ sở II có tác dụng tốt hơn đối với nhịp đập sớm tâm nhĩ và chức năng. Bột Diên hồ sách uống có tác dụng điều trị nhất định đối với nhịp đập sớm của tâm nhĩ. Dùng hơn 10 gam có thể kiểm soát sự khởi phát của rung nhĩ kịch phát.

Tác dụng chống loạn nhịp và chỉ định của Hoàng liên là ǵ?
Hoàng liên là thân rễ và rễ của cây cỏ sống lâu năm họ Hoàng liên, lá Tam giác liên hoặc Vân liên.
Tính chất và hương vị và quy kinh: Vị đắng, tính lạnh. Quy kinh tâm, can, vị, đại tràng.
Công hiệu: Thanh nhiệt và ẩm thấp, tả hoả giải độc.
Ứng dụng lâm sàng: Chủ yếu được dùng chữa các bệnh tiêu chảy, kiết lỵ, nôn mửa và sốt do nhiệt ẩm ở dạ dày và ruột. Nó có tác dụng loại bỏ thấp nhiệt ở trung tiêu, tả hoả và giải độc.
Nghiên cứu y học hiện đại: Berberine là một alkaloid amin bậc bốn được chiết xuất từ cây thuốc cổ truyền Trung Quốc Coptis chinensis. Trong quá khứ, nó chủ yếu được sử dụng để chống viêm và tiêu chảy, và điều trị viêm ruột. Năm 1985, một người nào đó (Shaffer) đă phát hiện ra rằng berberine có tác dụng co bóp tim tích cực và tần số âm. Ksiczycck và cộng sự cũng quan sát thấy tác dụng chống loạn nhịp tim. V́ vậy, nó được sử dụng rộng răi trong điều trị rối loạn nhịp tim. Có dữ liệu lâm sàng cho thấy hiệu quả của berberine đường uống đối với rối loạn nhịp thất, loạn nhịp trên thất và co thắt tâm thất sớm chịu lửa lần lượt là 70%, 84% và 60%. Không có tác dụng phụ nghiêm trọng. Các quan sát lâm sàng cũng cho thấy rằng berberine uống có thể có hiệu quả đối với nhịp nhanh thất ngoan cố.

Tác dụng chống loạn nhịp tim và chỉ định của Khổ sâm là ǵ?
Khổ sâm là rễ của Khổ sâm, một loài cây bụi phụ rụng lá lâu năm thuộc họ đậu.
Tính chất và hương vị quy kinh: vị đắng, tính lạnh. Quy kinh tâm, can, vị, đại tràng, bàng quang.
Công hiệu: Thanh nhiệt táo thấp, khứ phong sát trùng, lợi tiểu.
Ứng dụng lâm sàng: Nó được sử dụng trên lâm sàng cho bệnh vàng da, tiêu chảy, đái hạ, ngứa âm đạo, ngứa da, ghẻ và thấp nhiệt uẩn kết, kiết lỵ, tiểu khó và tiểu rát.
Nghiên cứu y học hiện đại: Người ta thường tin rằng matrine và genistein trong Khổ sâm có tác dụng chống loạn nhịp tim. Bệnh viện trực thuộc cấp I và III của Đại học Y Bắc Kinh đă sử dụng matrine làm thuốc tiêm điều trị 100 trường hợp rối loạn nhịp tim do nhiều nguyên nhân khác nhau, tỷ lệ hiệu quả là 68%, đồng thời có tác dụng nhất định đối với rung nhĩ. Theo dữ liệu của Cao đẳng Y tế Quư Dương, cơ chế hoạt động của Khổ sâm có thể là một hiệu ứng giống như “quinidine” không đặc hiệu. Đồng thời, một nghiên cứu của ai đó (Wang Xu) cho rằng: Khổ sâm có tác dụng ngăn chặn kênh canxi, có thể là cơ chế chính của thuốc trong điều trị nhịp đập sớm. Hiệu quả ứng dụng trên lâm sàng cho thấy co bóp sớm trên thất tốt hơn co bóp sớm thất.
Bào chế: Viên nén Sophora flavescens (do Xí nghiệp Dược phẩm Cao đẳng Y tế Bắc Kinh sản xuất), mỗi viên chứa 2 gam dược liệu thô.
Liều dùng: Mỗi lần 3 đến 10 viên (trung b́nh 5 viên), ngày 3 lần. Kết quả thường xuất hiện trong ṿng 8 tuần.
Độc và tác dụng phụ: Theo quan sát, hầu hết đều không có phản ứng bất lợi. Một số ít có thể có các phản ứng tiêu hóa như chán ăn, buồn nôn, đau dạ dày và tiêu chảy.

Tác dụng và chỉ định của thuốc chống rối loạn nhịp tim của vị Pḥng kỷ là ǵ?
Pḥng kỷ là rễ của Pḥng kỷ, một cây leo thân gỗ lâu năm thuộc họ Phấn pḥng kỷ hoặc rễ của Quảng Pḥng kỷ, một loại thảo mộc sống lâu năm thuộc họ Mă đâu linh.
Tính vị và quy kinh mạch: Vị đắng, cay, tính lạnh, quy các kinh bàng quang, thận, tỳ.
Công hiệu: Khứ phong thấp, giảm đau, lợi tiểu.
Ứng dụng lâm sàng: Được sử dụng trên lâm sàng cho các chứng đau khớp do thấp khớp và phù nề, cổ trướng, Cước khí, v.v. Nó có thể trừ khứ bệnh thấp khớp, giảm đau và lợi tiểu, đồng thời thanh thấp nhiệt ở hạ tiêu.
Nghiên cứu y học hiện đại: Theo báo cáo của Trương Quư Khanh và cộng sự: Phấn pḥng kỷ có trong bột y học cổ truyền Trung Quốc phấn pḥng kỷ có thể đối kháng với chứng loạn nhịp tim do ouabain và canxi clorua gây ra; tác dụng đối kháng của aconitine và rối loạn nhịp tim do kích thích điện là yếu hoặc không đáng kể. Cơ chế hoạt động chống loạn nhịp của nó tương tự như của verapamil, có liên quan đến sự đối kháng của ḍng Ca ++. Các nghiên cứu điện sinh lư đă xác nhận rằng APD và ERP có thể kéo dài.
Người ta báo cáo rằng Mộc pḥng kỷ, chiết xuất từ rễ của cây họ Mộc pḥng kỷ, có thể chống lại chứng loạn nhịp tim gây ra bởi aconitum và ouabain, kéo dài giai đoạn b́nh nguyên tiềm năng hoạt động của tế bào tâm thất và ERP của cơ tim nhĩ, và tác dụng chống loạn nhịp tim của nó có thể gây ra. bằng cách kéo dài thời gian chịu lực của cơ tim và loại bỏ sự tái tạo.
Về mặt lâm sàng, nó có thể được sử dụng cho rối loạn nhịp tim trên thất, tâm nhĩ, nhịp nhanh chức năng, v.v. Mỗi liều lượng từ 10 đến 15 gam.

Tác dụng và chỉ định của Bán hạ chống loạn nhịp tim là ǵ?
Bán hạ là rễ củ của cây thảo mộc Bán hạ sống lâu năm. Nói chung, nó được chế biến và sử dụng với gừng và phèn chua, được gọi là chế Bán hạ.
Tính vị và quy kinh: Vị cay, tính ấm, có độc. Quy các kinh Tỳ, vị và phế.
Công hiệu: Táo thấp hoá đàm, giáng nghịch và trị nôn, tiêu trừ bĩ tắc, kết tụ.
Ứng dụng lâm sàng: Điều trị tạng tỳ không hoá được thấp tạo thành đàm dăi quá nhiều dẫn đến nhiều đàm, ho, khí nghịch và trào ngược dạ dày, lợm giọng buồn nôn.
Nghiên cứu y học hiện đại: Thiên nam tinh, một loại thực vật được chiết xuất từ rễ của Bán hạ, có thể làm giảm đáng kể APD và Vmax của các tế bào cơ tâm thất lợn bị cô lập, đồng thời có thể kéo dài APD và ERP. Có tác dụng chống loạn nhịp giống quinidin. Do đó, nó có thể được sử dụng lâm sàng cho rối loạn nhịp nhĩ và thất. Liều lượng là 10-15 gam. Thường được sử dụng phối hợp trong phương thang.
Tác dụng và chỉ định của vị thuốc Câu đằng chống loạn nhịp tim là ǵ?
Câu đằng thuộc khoa Tây thảo (c̣n gọi là Thiến thảo) là một loại dây leo thân gỗ màu lục thuộc họ Rubiaceae Uncaria, và thân có móc của nhiều loại cây thuộc cùng một họ.
Tính vị quy kinh: Vị cam, hơi lạnh, quy hai kinh can và tâm bào.
Công hiệu: Tức phong chỉ kính (Trị phong ngừng co giật), thanh nhiệt b́nh can.
Ứng dụng lâm sàng: 1/ Dùng trị động kinh co giật, v́ có tác dụng trị phong trị co giật khá tốt. 2/ Dùng trị chứng nóng ở kinh can, đầu trướng đau hoặc các hội chứng can dương thượng kháng (dương của can bốc lên mạnh mẽ), đầu vựng, hoa mắt. V́ vị thuốc này có thể thanh nhiệt lại có thể b́nh can*.
Nghiên cứu của y học hiện đại: Từ Câu đằng thuộc họ Tây thảo toàn phần của đại diệp Câu đằng có tác dụng đối kháng đối với rối loạn nhịp tim của chuột do ô đầu kiềm, bari clorua và canxi clorua gây ra. Nó có thể làm chậm đáng kể nhịp tim của chó và chuột, và tác dụng của nó có liên quan đến việc ức chế nhịp ngoài tử cung và nút xoang nhĩ, đồng thời làm chậm dẫn truyền nhĩ thất và trong tâm nhĩ. Do đó, nó có thể được sử dụng lâm sàng cho nhịp tim nhanh. Lượng thông thường là 15-20 gram, và nó được sử dụng phối hợp trong phương thang.

Tác dụng chống loạn nhịp tim và chỉ định của cam thảo đắng là ǵ?
Cam thảo đắng là một loại cây thuộc chi Hoè trong họ khổ cam thảo.
Tính vị phân bổ kinh lạc: Vị đắng, tính lạnh.
Công hiệu: Thanh nhiệt giải độc.
Ứng dụng lâm sàng: dùng chữa lỵ, chàm, đau răng, ho.
Nghiên cứu y học hiện đại: Đậu khoa hoè (Sophocarpine) C15H22N20 chiết xuất từ chi Sophora Sophora có tác dụng chống loạn nhịp thất, nhưng tác dụng không liên quan ǵ đến thụ thể β của tim qua nghiên cứu thực nghiệm. Nó có thể được sử dụng lâm sàng cho rối loạn nhịp thất. Liều lượng chung là 6-10 gam.
Các tác dụng chống loạn nhịp tim và chỉ định của Ngũ gia b́ bắc là ǵ?
Vỏ cây Ngũ gia là vỏ rễ của cây Cống Liễu (romoaceae).
Quy kinh lạc và tính vị: Cay, đắng, tính ấm. Quy kinh Tâm và Thận.
Công hiệu: Bổ tim lợi tiểu, bổ gan thận, mạnh gân cốt.
Ứng dụng lâm sàng: Trên lâm sàng, chủ yếu được sử dụng cho chứng khó tiểu do tâm khí hư và thận khí hư, hai chi dưới phù nề, tức ngực, hồi hộp, mệt mỏi và các chứng bệnh khác. Nó cũng có thể dùng cho người chân tay bủn rủn, đầu gối đau nhức do gan thận hư nhược gây ra, nhưng tác dụng bổ gan thận yếu hơn một chút so với Nam Ngũ gia b́.
Nghiên cứu hiện đại: Theo nghiên cứu của bệnh viện Tây Uyển, nó có tác dụng làm chậm nhịp tim giống như Dương địa hoàng, và có tác dụng cường tim, tăng tuần hoàn phổi, kích thích hệ thần kinh trung ương. Nó tốt hơn cho việc điều trị suy tim kết hợp với rung tâm nhĩ. Tác dụng của nó tương tự như của Dương địa hoàng (digitalis).
Nó thường được sử dụng lâm sàng cho rung tâm nhĩ và suy tim do bệnh tim thấp khớp.
Liều dùng: 5-10 gam, chủ yếu dùng phối hợp trong phương thang.
Độc và tác dụng phụ: Dùng quá nhiều dễ bị ngộ độc.
Tác dụng chống loạn nhịp tim và chỉ định của Tam thất (Panax notoginseng )là ǵ?
Nhân sâm tam thất là rễ củ của cây Tam thất thuộc họ Nhân sâm.
Quy kinh & phân bố tính vị: ngọt nhạt, hơi đắng, tính ấm. Quy kinh can và vị.
Công hiệu: Loại bỏ huyết ứ cầm máu, thúc đẩy tuần hoàn máu (hoạt huyết), giảm đau.
Ứng dụng lâm sàng: (1) Nó được sử dụng cho các chứng xuất huyết trong và ngoài cơ thể con người, có tác dụng loại bỏ huyết ứ và cầm máu. (2) Dùng cho các vết bầm tím, ứ trệ, sưng đau, có tác dụng thúc đẩy tuần hoàn máu, giảm đau.
Nghiên cứu hiện đại: Toàn bộ glycoside của Tam thất Panax notoginseng chiết xuất từ Tam thất có thể chống lại chứng rối loạn nhịp tim do chloroform, bari clorua, aconitine và adrenaline gây ra ở động vật, đồng thời cũng có thể làm tăng ngưỡng rung điện tâm thất ở thỏ. Bệnh viện liên kết đầu tiên của Trường Cao đẳng Y tế Côn Minh đă sử dụng ouabain và lông độc K để gây rối loạn nhịp thất ở chó. Nhóm điều trị bằng saponin Panax notoginseng được so sánh với nhóm điều trị bằng lidocain và không có sự khác biệt đáng kể về hiệu quả chữa bệnh. Người ta kết luận rằng saponin Panax notoginseng có hai cơ chế hoạt động, một là cải thiện tính đồng nhất của thời kỳ trơ của cơ tim và loại bỏ ṿng vào lại; hai là có thể kéo dài bước sóng của sóng kích thích vào lại và chấm dứt ṿng vào lại. Nó cũng ức chế sự tự kỷ luật của nút xoang và dẫn truyền xoang nhĩ.
Các kết quả thí nghiệm được ghi trong “Từ điển Y học Trung Quốc” chứng minh rằng Tam thất có thể làm tăng đáng kể lưu lượng máu mạch vành và giảm mức tiêu thụ oxy của cơ tim; nó cũng có thể hạ huyết áp động mạch và giảm nhẹ nhịp tim, giảm khối lượng công việc của tim.
Theo các thí nghiệm trên và kinh nghiệm dùng thuốc truyền thống, Panax notoginseng có thể được sử dụng để điều trị chứng đau thắt ngực của bệnh tim mạch vành, nhịp tim nhanh xoang và các chứng loạn nhịp tim khác.
Liều dùng lâm sàng: 3-5 gam, nghiền thành bột, ngày uống 2 lần.

Tác dụng và chỉ định chống loạn nhịp của nhân sâm là ǵ?
Nhân sâm là rễ của cây thân thảo lâu năm nhân sâm thuộc họ Ngũ gia.
Tính vị phân bổ kinh lạc: Vị ngọt, hơi đắng, tính ấm, vào hai kinh tỳ & phế.
Công hiệu: Bồi bổ sinh lực, bổ tỳ ích phế, làm dịu cơn khát và bồi bổ cơ thể, xoa dịu thần kinh, nâng cao trí tuệ.
Ứng dụng lâm sàng:
(1) Nó được sử dụng cho các triệu chứng khí hư dục thoát, mạch rất yếu, đổ mồ hôi và lạnh tứ chi, v.v. (2) Dùng cho tỳ khí và phế khí hư nhược. (3) Nó được sử dụng để giải khát và tiêu khát, có tác dụng ích khí sinh tân dịch trị khát nước. (4) Trị tinh thần bất an, mất ngủ, mộng mị, hồi hộp, hay quên.
Nghiên cứu hiện đại: Nhân sâm chứa nhiều thành phần khác nhau như ginsenosides. Nhân sâm có tác dụng cường tim, tăng huyết áp, hưng phấn tim, tăng sức co bóp cơ tim, tăng nhịp tim. Đối với tim, nó có thể làm suy yếu hoặc loại bỏ chứng rối loạn nhịp tim do chloroform-adrenaline gây ra, nó có thể cải thiện t́nh trạng suy nhược cơ tim ở mèo và thỏ bị rung tâm thất. Đối với huyết áp, liều lượng nhỏ có thể làm tăng huyết áp và liều lượng lớn có thể làm giảm huyết áp.
Trên lâm sàng, nó có thể được sử dụng cho nhịp tim chậm và các rối loạn nhịp tim khác và huyết áp thấp do thiếu khí.
Liều dùng: 5-10 gam, ngày 1 lần. hoặc tùy theo điều kiện.
Tác dụng chống loạn nhịp tim và chỉ định của vị thuốc Phụ tử (aconite) là ǵ?
Phụ tử là rễ của loại thảo mộc lâu năm có tên là Ô đầu
Tính vị & quy kinh lạc: Vị cay nồng, tính nóng, có độc. Quy tâm, thận, tỳ kinh.
Công hiệu: Hồi dương giải uất, dưỡng hỏa trợ dương, tán phong, giảm đau.
Ứng dụng lâm sàng: dùng cho các chứng dương hư, ra nhiều mồ hôi vong dương, Phụ tử có thể trợ tâm dương thông kinh mạch. Đối với các bệnh do dương hư, sản phẩm này có thể bổ hỏa trợ dương, dùng cho người có các tạng tỳ, thận, tâm dương khí hư yếu. Thứ hai, nó cũng có thể được sử dụng cho chứng đau khớp do phong thấp, có tác dụng trừ hàn thấp, ấm áp kinh mạch và giảm đau.
Y học hiện đại nghiên cứu: Phụ tử được chiết xuất từ rễ cây Ô đầu thuộc họ Mao lương là một trong những thành phần bổ tim hiệu quả. Một số nghiên cứu cho rằng thuốc có thể là chất chủ vận từng phần của thụ thể β, tác dụng chủ yếu trên kênh chậm để phát huy tác dụng chống loạn nhịp chậm. Trên lâm sàng, truyền tĩnh mạch có thể cải thiện tính tự giác của nút xoang, cải thiện dẫn truyền xoang nhĩ và nhĩ thất, đồng thời rút ngắn đáng kể khoảng A-H. Nhiều báo cáo đă xác nhận rằng SNRT, CSNRT và SACT của bệnh nhân viêm xoang bị rút ngắn, nhịp tim vốn có được tăng nhanh, xoang tĩnh lại và khối xoang nhĩ biến mất sau khi dùng thuốc.
Nó có thể được sử dụng lâm sàng cho nhịp tim chậm xoang và hội chứng xoang bị bệnh do thiếu dương.
Liều dùng: 10-15 gam, ngày 1 lần, phần lớn là dùng phối hợp với phương thang.
Lưu ư: Do miền nam có độ ẩm cao nên lượng aconite thường nhiều hơn 20-50 gam. Đặc biệt Tứ Xuyên, Quư Châu, Vân Nam dùng nhiều hơn. Nhưng nói chung nên nấu trước từ 1 đến 2 tiếng trước để khi uống không bị ảnh hưởng của tác dụng phụ.
Tác dụng và chỉ định chống loạn nhịp tim của Đông trùng hạ thảo là ǵ?
Đông trùng hạ thảo là phần phụ của loài thực vật Đông trùng hạ thảo thuộc họ Ergotaceae và là xác của ấu trùng của loài côn trùng Batmothidae kư chủ.
Tính vị phân bổ kinh lạc: Vị ngọt, tính ấm. Quy phế, thận kinh.
Công hiệu: Bổ thận ích phổi, cầm máu, hóa đờm.
Ứng dụng lâm sàng: Trên lâm sàng thường dùng cho các chứng liệt dương, tiểu đêm, lưng gối đau mỏi, ho măn tính khó thở, lao lực quá độ ho ra đờm lẫn máu. Nó có chức năng tăng cường sinh lực thận dương và có lợi cho âm của phổi.
Y học hiện đại nghiên cứu: Có người quan sát thấy Đông Trùng Hạ Thảo nhân tạo có thể làm chậm nhịp tim, có tác dụng pḥng ngừa thiếu máu cơ tim và nhồi máu cơ tim, đồng thời có tác dụng đối kháng với loạn nhịp tim do Ô đầu kiềm và barium chloride gây ra. Mai Kỳ Bính và những người khác đă thử nghiệm chiết xuất rượu đông trùng hạ thảo tự nhiên và phát hiện ra rằng nó có thể chống lại đáng kể chứng rối loạn nhịp tim của chuột bị gây mê do Ô đầu kiềm và bari clorua gây ra; Có thể cải thiện khả năng chịu đựng ngộ độc ouabain của tim lợn guinea; nó có thể làm cho giảm sự co bóp cơ tim của chuột lang bị mê và tim lợn guinea. Tuy nhiên, nó không có ảnh hưởng đáng kể đến nhịp điệu tự động của tâm nhĩ phải và giai đoạn trơ chức năng của tâm nhĩ trái. Các nghiên cứu thực nghiệm của Trương Vệ, Lâu Nhă Khanh, v.v. cũng cho thấy nó có tác dụng chống loạn nhịp tim và tác dụng đối kháng canxi do Ô đầu và bari clorua gây ra.
Trên lâm sàng, Du Huệ Sinh và Lư Bội Chương đă điều trị cho 50 và 65 trường hợp nhịp tim sớm khác nhau bằng viên nang Đông trùng hạ thảo, và tỷ lệ hiệu quả là 66% và 73%. Quan sát lâm sàng không có tác dụng phụ và độc hại. Do đó, nó có thể được sử dụng lâm sàng cho các nhịp đập sớm và nhịp tim nhanh khác nhau.
Liều dùng: 6-10 gam, ngày 1 lần.
các
Tác dụng chống loạn nhịp tim và chỉ định của Đương quy là ǵ?
Đương quy là rễ của loại thảo mộc lâu năm thuộc họ đa sinh niên thảo.
Tính vị phân bổ kinh lạc: Ngọt, cay, tính ấm. Quy kinh mạch can, tâm, tỳ.
Công hiệu: Bồi bổ, hoạt huyết, điều kinh, giảm đau.
Ứng dụng lâm sàng: Do có tác dụng bổ huyết điều kinh rất tốt nên được dùng cho các chứng huyết hư, kinh nguyệt không đều, vô kinh, thống kinh. Thứ hai, nó cũng có thể được sử dụng cho đau bụng do hư yếu và lạnh, đau do ứ máu và táo bón do thiếu máu tràng táo tiện bí.
Nghiên cứu y học hiện đại: Tương Tích Gia và các nghiên cứu lâm sàng khác tin rằng Đương quy có tác dụng giống như “quinidine” và có thể chống lại nhịp tim nhanh thất và trên thất do adrenaline-barium chloride gây ra. Nó c̣n có tác dụng làm giăn mạch vành, nuôi dưỡng các mạch máu nhỏ cơ tim và đối kháng với tác dụng gây thiếu máu cục bộ cơ tim của thuỳ thể hậu diệp tố (vasopressin). Theo phân tích lâm sàng Đương quy có tác dụng chữa tim đập sớm ở bệnh tim mạch vành tốt nhất, và không liên quan ǵ đến bệnh t́nh nặng nhẹ. Một số thí nghiệm trên động vật cho thấy rằng nó có thể ổn định tính thông thấu Na + của màng tế bào cơ tim do aconitine gây ra, giảm ḍng natri và do đó ức chế tính dễ bị kích thích dị vị tiết luật. Trong các nghiên cứu tiếp theo, người ta cho rằng Đương quy cũng có tác dụng đối kháng canxi mạnh. Nghiên cứu của Khoa Dược của Đại học Y khoa Hồ Bắc cho rằng Đương quy có tác dụng làm chậm thận thượng tuyến tố (adrenaline) và tăng nhịp tim, hiệu quả chữa bệnh co thắt tâm thất sớm do bệnh mạch vành gây ra đạt 83,3%. Theo các nghiên cứu trên, Đương quy có tác dụng điều trị nhịp thất sớm do bệnh mạch vành gây ra, đồng thời cũng có tác dụng điều trị nhịp nhanh trên thất và nhịp nhanh thất.
Liều dùng: 10-20 gam, chủ yếu dùng phối hợp trong phương.
Tác dụng và chỉ định chống loạn nhịp tim của Lộc nhung là ǵ?
Lộc nhung là chiếc sừng non chưa cốt hóa và có lông trên đầu của hươu đực như hươu mai hoa và mă lộc.
Tính vị và quy kinh: Ngọt, mặn, tính ấm. Quy hai kinh mạch là can & thận.
Công năng: Bổ thận dương, ích tinh huyết, cường gân cốt.
Ứng dụng lâm sàng: Nó được sử dụng cho các triệu chứng như thận dương không đầy đủ, tinh huyết không đủ, liệt dương và xuất tinh sớm, lạnh tử cung và vô sinh, chóng mặt, điếc, tinh thần mệt mỏi. Thứ hai, nó cũng được dùng cho các chứng tinh huyết không đủ, Yếu cơ và xương hoặc chậm phát triển ở trẻ em. Cũng có thể dùng cho những phụ nữ hai mạch Xung Nhâm hư hàn, Đới mạch không kiên cố, băng huyết liên tục, ra nhiều huyết trắng.
Nghiên cứu y học hiện đại: Theo nghiên cứu của Mao Phượng Chí, thử nghiệm thuốc có thể làm tăng lưu lượng mạch vành của tim chuột bị cô lập, tăng phạm vi co bóp của tim, làm chậm nhịp tim và có tác dụng trợ tim. Theo kinh nghiệm lâm sàng của tác giả, Lộc nhung có thể cải thiện nhịp tim đối với nhịp tim chậm xoang và hội chứng xoang bệnh do dương hư.
Trên lâm sàng, nó có thể được sử dụng cho bệnh yếu tim, nhịp tim chậm xoang và hội chứng xoang bệnh do dương hư.
Liều dùng: 2-3 gam, ngày 1 lần, tán thành bột và nuốt. Nói chung, 3 đến 7 ngày là một quá tŕnh điều trị. Có thể uống lại sau 2 đến 3 ngày ngưng thuốc và dùng liên tục trong 2 đến 3 đợt điều trị.
Thận trọng: Không thích hợp cho bệnh nhân dương khí kháng thịnh (quá mạnh) và bệnh nhân âm hư hỏa vượng.
Tác dụng và chỉ định của dịch tiêm Sinh mạch tán trong điều trị rối loạn nhịp tim là ǵ?
Y học cổ truyền Trung Quốc sử dụng Sinh mạch tán (Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị tử) cho những bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo, Có tác dụng cho sự cố kết khí, thúc đẩy mạch và cường tim, hiệu quả ứng dụng lâm sàng rất tốt. Vào cuối những năm 1970, nó được đổi thành thuốc tiêm, tên là Thuốc tiêm Sinh mạch hoặc Thuốc tiêm Sinh mạch tán, có tác dụng cường tim và tăng huyết áp, bổ khí và trẻ hóa mạch. Tác dụng tăng cường của sản phẩm này chậm và lâu dài. Khi kết hợp Đông y và Tây y được sử dụng để cấp cứu những bệnh nhân nguy kịch, nó có thể được sử dụng cùng với một số loại thuốc tây tăng cường để đạt được hiệu quả tăng cường nhanh chóng với hiệu quả lâu dài và ổn định. Nó được sử dụng lâm sàng trong nhồi máu cơ tim, sốc tim, viêm cơ tim và suy tim. Có sẵn để tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch. Tiêm bắp mỗi lần từ 2 đến 4 ml, ngày 2 lần. Nó cũng có thể được trộn với 5% đến 10% glucose để tiêm tĩnh mạch theo tỷ lệ 2:10, và liều lượng có thể đạt tới 20 đến 50 ml / lần, và có thể tiêm tĩnh mạch 1 hoặc 2 lần một ngày. Lượng tiêm Sinh mạch tối đa trong ứng dụng lâm sàng là 100 ml/lần và không t́m thấy tác dụng phụ rơ ràng nào.

Thuốc tiêm Đan sâm điều trị rối loạn nhịp tim như thế nào?
Thuốc tiêm Đan sâm là một chế phẩm và chế phẩm tổng hợp của thuốc Đan sâm truyền thống của Trung Quốc. Ứng dụng lâm sàng của Đan sâm trong y học cổ truyền Trung Quốc đă chứng minh rằng nó có tác dụng thúc đẩy lưu thông máu và loại bỏ máu ứ, làm mát máu và giảm sưng, nuôi dưỡng máu và làm dịu thần kinh. Các nghiên cứu dược lư hiện đại cho rằng Đan sâm tiêm có tác dụng thúc đẩy tuần hoàn máu và loại bỏ huyết ứ, làm giăn mạch và tăng lưu lượng máu mạch vành. Nó thường được sử dụng lâm sàng cho chứng đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim và viêm cơ tim. Bởi v́ nó có thể làm tăng lưu lượng máu mạch vành và cải thiện việc cung cấp máu nhánh, nó cũng có thể được sử dụng cho khối nhánh và rối loạn nhịp tim như hội chứng xoang bị bệnh. Có thể tiêm bắp và (truyền) nhỏ giọt tĩnh mạch. Tiêm bắp mỗi lần 2 đến 4 ml, ngày 1 hoặc 2 lần. Có thể nhỏ giọt tĩnh mạch mỗi lần 10-20 ml, ngày 1-2 lần.
Thành phần, công dụng và chỉ định của Thiên vương bổ tâm đan, cách dùng như thế nào?
Thiên vương bổ tâm đan “Nhiếp sinh bí phẫu”, thành phần đơn thuốc: Sinh địa hoàng, Nhân sâm, Đan sâm, Huyền sâm, Phục linh, Ngũ vị tử, Viễn chí, Cát cánh, Đương quy thân, Thiên môn, Mạch môn, Bá tử nhân, Toan táo nhân. Nghiền thành bột và trộn với mật ong để tạo thành viên thuốc.
Đơn thuốc này có công dụng dưỡng âm dưỡng huyết, bổ tâm, trấn kinh. Trên lâm sàng dùng cho các chứng âm hư huyết hư, tâm thận âm hư do thiếu, trằn trọc, mất ngủ, hồi hộp mệt mỏi, tiểu đêm, hay quên, đại tiện khô, miệng lưỡi đau, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác.
Trong phương thuốc trọng dụng vị Sinh Địa Hoàng dùng để bổ âm, bồi bổ thủy để có thể khống chế hỏa, nhập huyết phận để dưỡng huyết, nếu huyết không khô th́ dịch trong cơ thể sẽ tự nhuận, và đây chính là chủ dược (Sinh địa). Huyền sâm, Thiên môn, Mạch môn có tính vị ngọt lạnh tư nhuận để trị hư hoả, Đan sâm, Đương quy có công dụng hỗ trợ dưỡng âm dưỡng huyết, thực chất là để tư âm bổ huyết. Trong đơn thuốc, Nhân sâm, Phục linh có tác dụng ích khí an tâm; Toan táo nhân và Ngũ vị tử vị chua có tác dụng thu liễm tâm khí mà an thần; Bá tử nhân, Viễn chí, Chu sa có tác dụng dưỡng tâm an thần tất cả được thiết kế để nuôi dưỡng tâm khí và ninh tâm an thần. Hai nhóm thuốc tương hợp với nhau, một nhóm bổ âm dưỡng huyết không đầy đủ để trị căn nguyên bệnh, một nhóm chữa các chứng hư phiền mất ngủ (tiêu chứng). Kiêm trị triệu chứng và căn nguyên, khi âm huyết đầy đủ th́ bệnh tật đều có thể tự khỏi. Vị thuốc Cát cánh trong phương có tác dụng đưa các vị thuốc lên trên.
Trên lâm sàng, có hai loại Thiên vương bổ tâm đan: Viên mật ong và viên bao đường. Âm hư huyết ít, tâm thận âm hư điều trị rối loạn nhịp tim, có thể sử dụng thuốc chế sẵn (thành dược). Mỗi lần uống một viên, ngày 1 lần vào buổi sáng và tối. Đối với dạng viên, mỗi lần 4-5 viên, ngày 3 lần. Cũng có thể sắc thành thuốc sắc, mỗi ngày một lần.
Thành phần, công dụng và chỉ định và cách sử dụng của thuốc Bá tử dưỡng tâm hoàn như thế nào?
Thuốc Bá tử dưỡng tâm hoàn có nguồn gốc từ “Thể nhân hối biên”, bao gồm: Bá tử nhân 120g, Cẩu kỷ tử 90g, Mạch môn, Đương quy, Thạch xương bồ, Phục thần mỗi vị 30g, Huyền sâm, Thục địa mỗi vị 60g, Cam thảo 15g. Nghiền thành bột và chế mật ong thành viên. Đơn thuốc này có công dụng dưỡng tâm an thần, bổ thận tư âm. Sử dụng lâm sàng cho doanh huyết không đầy đủ, trạng thái tinh thần hoảng hốt do tâm thận mất điều hoà, rối loạn lo âu, ngủ hay mơ, đổ mồ hôi đêm và hay quên.
Trong phương có Câu kỷ tử, Địa hoàng có tác dụng bổ thận khí; Đương quy, Huyền sâm, Mạch đông có tác dụng bổ âm dưỡng huyết; Bá tử nhân, Phục thần, Thạch xương bồ có tác dụng ninh tâm an thần; Cam thảo có tác dụng ích khí và hoà trung. Hợp chung các vị thuốc lại có công dụng bổ thận tư âm ninh tâm an thần.
Thuốc Bá tử dưỡng tâm có hai loại: 6 gram và 9 gram. Nó được sử dụng lâm sàng để điều trị rối loạn nhịp tim do doanh huyết không đầy đủ và tâm thận không điều hoà. Mỗi lần 1 viên, sáng và tối 1 lần. Có thể uống lâu dài, một tháng là một đợt điều trị.
Thành phần, công dụng, chỉ định của Định chí hoàn và cách sử dụng như thế nào?
Định chí hoàn đến từ “Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc”. Thành phần Phương thuốc như sau: Nhân sâm, Phục linh, Phục thần mỗi thứ 90g, Xương bồ và khương Viễn chí mỗi thứ 60g, Chu sa 30g, trộn trong làm áo, mật ong làm viên.
Phương thuốc có công dụng bổ tâm ích trí, trị sợ hăi và an thần. Dùng trị chứng trạng hay sợ hăi cáu giận, hồi hộp bất an, đêm nằm không yên.
Trong phương dùng Nhân sâm, Phục linh, Phục thần để bổ tâm ích trí, dùng Xương bồ, Viễn chí, Chu sa để trấn tĩnh an thần, khi tâm khí mạnh mẽ th́ các chứng sợ hăi, hồi hộp, mất ngũ sẽ tự hết.

Trên lâm sàng được dùng để điều trị rối loạn nhịp tim do khiếp sợ, hồi hộp, và mất ngủ. Mỗi lần 6~9g, ngày 3 lần. Nói chung, 15 ngày là một quá tŕnh điều trị. Các triệu chứng được cải thiện, giấc ngủ ban đêm được cải thiện và hết bệnh. Trong đơn thuốc có vị Chu sa, v́ thế không nên dùng lâu dài.

Thành phần, công dụng, chỉ định của Chu sa an thần hoàn và cách sử dụng?
Chu sa An thần đan là phương dược viết trong “Y học phát minh”, thành phần là: Chu sa 15g, Hoàng liên 18g, Cam thảo chích 16g, Sinh địa hoàng 8g, Đương quy 8g. Chu sa thuỷ phi, c̣n lại bốn vị nghiền thành bột mịn, hoàn thành viên.
Bài thuốc này có tác dụng trấn tâm an thần, tả hỏa, dưỡng âm. Trên lâm sàng dùng cho các chứng tâm hỏa vượng, âm huyết bất túc, bứt rứt, mất ngủ, mộng mị, hồi hộp, trống ngực, thậm chí nôn mửa, trong ngực bứt rứt, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.
Trong đơn thuốc, Chu sa được dùng nhiều để trấn an tinh thần. Chu sa là thể dương tính âm, lạnh có thể thắng nhiệt, khống chế hỏa phù việt, Hoàng liên vị đắng lạnh, thanh nhiệt trừ phiền; Hai vị thuốc phối hợp có công năng tả hỏa, thanh nhiệt, trừ phiền, là những vị thuốc chủ yếu trấn an thần kinh. Đương quy dưỡng huyết, Sinh địa hoàng dưỡng âm, bồi bổ âm huyết bị háo tổn, là thuốc phụ trợ. Cam thảo điều ḥa các vị thuốc. Phối hợp thành một phương thuốc có tác dụng bồi bổ căn bản và khứ trừ nguyên nhân bệnh (kiêm cos tiêu bản) một là thanh tả hỏa thịnh, hai là bồi bổ âm huyết bất túc, để cho tâm hỏa có thể hạ giáng và âm huyết thượng thừa.
Phương dược được sử dụng trên lâm sàng để điều trị rối loạn nhịp tim do tâm hỏa quá nhiều và âm huyết không đầy đủ. Mỗi lần 6 ~ 9g, ngày 3 lần, một đợt điều trị 15 ngày.
Chỉ định của Sinh mạch ẩm là ǵ và phương pháp sử dụng như thế nào?
Sinh mạch ẩm được bào chế vào đầu những năm 1980 trên cơ sở cổ phương có tên là Sinh mạch tán (Nhân sâm, Mạch môn và Ngũ vị tử), dễ dàng mang theo và uống, đồng thời cũng thuận tiện cho việc điều trị lâm sàng. Chức năng chủ yếu là ích khí phục mạch, dưỡng âm sinh tân dịch. Ứng dụng trên lâm sàng để điều trị khí và âm bị tổn thương, hồi hộp, khó thở, mạch vi và đổ mồ hôi. Uống mỗi lần 1~2 ống (10-20ml), ngày 3 lần. Có thể sử dụng lâu dài.
Trong một số chất lỏng dạng uống Sinh mạch ẩm, Nhân sâm trong đơn thuốc được đổi thành Đảng sâm (mô tả được đánh dấu là “Đảng sâm phương” ), v́ vậy công dụng tăng cường sinh lực bổ khí yếu hơn so với Nhân sâm.
Các chứng trạng thích ứng với Hoạt tâm hoàn, phép sử dụng như thế nào?
Thuốc Hoạt tâm hoàn được tinh chế từ các vị thuốc cổ truyền của Trung Quốc như Nhân sâm, nấm linh chi, Xạ hương, Ngưu hoàng, Thái đảm (mật gấu), Hồng hoa theo nguyên tắc điều trị “Hoạt huyết hóa ứ, bổ tâm ích khí” trong y học cổ truyền Trung Quốc.
Sản phẩm này có chức năng chống thiếu máu cơ tim, cải thiện vi tuần hoàn, giảm đau thắt ngực và cải thiện chức năng tim. Tác dụng của nó lâu hơn so với nitroglycerin và không có tác dụng phụ như tim đập mạnh, mặt đỏ bừng và đau đầu do nitroglycerin gây ra.
Chứng thích ứng: Điều trị bệnh mạch vành tim và các cơn đau thắt ngực do bệnh này gây ra, thiếu máu cơ tim và suy tim do rối loạn nhịp tim.
Cách dùng, liều lượng: Dùng uống, người lớn mỗi lần 1-2 viên, ngày 1-3 lần.
Quy cách: Mỗi viên chứa 20 mg chiết xuất.

Các chứng thích ứng với Tốc hiệu cứu tâm hoàn, dụng pháp như thế nào??
Tốc hiệu cứu tâm hoàn là một công thức thuốc nhỏ giọt của y học cổ truyền Trung Quốc được chiết xuất từ các loại thuốc truyền thống của Trung Quốc như Xuyên khung và Băng phiến thông qua các phương pháp khoa học hiện đại. Nó có các đặc điểm như liều lượng nhỏ, hiệu quả chữa bệnh cao, tác dụng nhanh chóng và không có tác dụng phụ.
Công năng và chủ trị: Tăng lưu lượng máu mạch vành, bổ máu cơ tim, giảm cơn đau thắt ngực. Nó được sử dụng để điều trị bệnh tim mạch vành, tức ngực và khó thở, và đau vùng trước tim.
Cách dùng, liều lượng: Uống, ngày 3 lần, mỗi lần 4~6 viên. Cấp tính ngậm từ 10~15 viên nang.
Châm cứu điều trị rối loạn nhịp tim như thế nào?
Y học Trung Quốc cho rằng bất kỳ bệnh tật nào cũng là do tạng phủ, âm dương, khí huyết mất cân bằng.
Châm cứu trong điều trị rối loạn nhịp tim về cơ bản dựa trên nguyên tắc chọn huyệt theo kinh lạc, thông qua châm cứu điều chỉnh sự cân bằng âm dương giữa kinh lạc và tạng phủ sao cho có xu hướng tương đối cân bằng để đạt được tác dụng điều trị rối loạn nhịp tim. Trên lâm sàng thường sử dụng các huyệt thuộc các kinh như Thủ quyết âm tâm bào, thủ thiếu âm tâm, Túc thái dương bàng quang.
Phương pháp châm cứu và các huyệt thường dùng trong điều trị rối loạn nhịp tim trên lâm sàng:
(1) Thường dùng cho rối loạn nhịp tim
① Nội Quan, Tam Âm Giao, Thông Lư.
②Chủ huyệt: Nội quan, Tâm du, Thần môn. Phối huyệt: Cự khuyết, Tỳ du, Cách du, Túc tam lư, Xích trạch, Phong long, Đản trung, Phế du. Mỗi lần lấy 1 đến 2 chủ huyệt, và 2 đến 3 phối huyệt tùy theo hội chứng. Dùng phương pháp b́nh bổ b́nh tả, ngày 1 lần, xuyên kim 30 phút. 7 đến 10 ngày là một đợt điều trị.
(2) Điều trị nhịp nhanh trên thất
Lấy Nội quan và Gian sử. Châm xiên 1 đến 12 thốn, kích thích cường độ vừa phải, 10 đến 90 giây sau khi cảm giác kim xảy ra, nhịp tim nhanh có thể được dừng lại và nhịp xoang có thể được phục hồi.
(3) Điều trị rung nhĩ
Sử dụng phương pháp châm cứu cổ tay-mắt cá chân, lấy Nội quan và Thần môn ở bên trái, dùng kim dài 2-6 thốn tạo một góc 30° với da, nhanh chóng xuyên vào da, sau đó từ từ đâm kim song song với da. Để sản sinh cảm giác ê ẩm, tê, sưng và đau. Châm mỗi ngày một lần hoặc cách ngày, một đợt điều trị 10 ngày, cách nhau 10 đến 15 ngày. Thông thường, 1 đến 2 đợt điều trị là có hiệu quả.
Ngoại trị pháp của y học cổ truyền Trung Quốc điều trị rối loạn nhịp tim như thế nào?
Rối loạn nhịp tim trong y học hiện đại và đánh trống ngực trong y học cổ truyền có biểu hiện lâm sàng tương tự nhau. Y học cổ truyền Trung Quốc đă sử dụng liệu pháp bên ngoài để điều trị đánh trống ngực từ thời cổ đại. {Bị cấp thiên kim yếu phương}của Tôn Tư Mạc có ghi “Trị hung trung suyễn cấp, kinh quư……bất kham phục dược” (治胸中喘急、惊悸……不堪服药) Điều trị chứng suyễn cấp mà không thể uống thuốc, dùng “Phương tiết hung trung suyễn khí”, dùng Đào b́, Nguyên hoa mỗi thứ 1 thăng, giă nhuyễn, dùng vải lọc lấy nước cốt, đắp lên ngực cho ấm chân tay, mấy ngày sau sẽ hết hồi hộp.
{Kim quỹ yếu lược} ghi lại rằng việc thổi vụn thạch xương bồ vào lỗ mũi có thể chữa khỏi chứng đột tử ở trẻ em. Đó cũng là chức năng của việc sử dụng xương bồ để khai khiếu tỉnh năo.
Thứ hai, {Thiên kim yếu phương}, {Ngoại đài bí yếu}, {Trửu hậu bị cấp phương} cũng có ghi chép về bột Bán hạ, thổi vào mũi để điều trị đột tử.V́ Bán hạ có vị cay tính ấm, có tác dụng trừ đờm, nên lấy vị cay của nó để xua tan các nhân tố gây bệnh, trừ đờm và khai khiếu.
Mấy năm gần đây trên tạp chí có đưa tin: Dùng Bán hạ sống, thạch xương bồ v.v… nghiền thành bột mịn để dùng dần. Để điều trị nhịp tim nhanh trên thất, lấy một ít và thổi vào khoang mũi bệnh nhân và hắt hơi từ 3 đến 8 lần, thông thường nhịp tim sẽ trở lại b́nh thường trong ṿng 5 đến 10 phút.
các
Nhĩ châm của y học cổ truyền điều trị rối loạn nhịp tim như thế nào?
Tai giống như một bào thai lộn ngược, khu vực phân bố của các cơ quan nội tạng của nó là nơi chọn huyệt để điều trị các loại bệnh. Việc sử dụng nhĩ châm trong điều trị rối loạn nhịp tim trên lâm sàng đă đạt được những kết quả nhất định. Những năm gần đây, các bài thuốc điều trị rối loạn nhịp tim bằng nhĩ châm thường được sử dụng gồm:
(1) Tim, Thần môn, B́ chất hạ, Hung khu, Giao cảm. Ngày 1 lần, mỗi lần dùng 2~3 huyệt, lưu kim 20~30 phút. Có thể dùng cho nhịp nhanh trên thất.
(2) Các huyệt chính: Tâm, B́ chất hạ, Thần môn, Thận. Phối huyệt: Chẩm, Ngạch, Tuyến thượng thận, v.v. Mỗi lần châm 2 đến 3 huyệt chính và 1 đến 2 huyệt phối, lưu kim trong 20 đến 30 phút. Áp dụng cho các loại rối loạn nhịp tim.
(3) Nội phân tiết, Tâm, Giao cảm, Thần kinh, Thận, B́ chất hạ. Mỗi lần châm từ 2 đến 3 huyệt, dùng kim châm ngắn, lưu kim 20 đến 30 phút, hoặc day các huyệt bằng Vương bất lưu hành. Áp dụng cho các rối loạn nhịp tim khác nhau.

Thực phẩm kết hợp với thuốc (gọi là dược thiện) và rượu thuốc nào chữa rối loạn nhịp tim?
Phát sinh của rối loạn nhịp tim theo y học cổ truyền Trung Quốc: Với biểu hiện lâm sàng của bệnh, người ta thường cho rằng nguyên nhân gồm khí huyết không đầy đủ, âm dương mất cân bằng, hoảng sợ mệt mỏi; Một số nguyên nhân khác như đàm trọc và ứ huyết gây bệnh. Do đó, các món ăn y học cổ truyền và rượu thuốc có tác dụng bổ khí dưỡng huyết, điều ḥa âm dương, trấn an tinh thần, dưỡng tâm, hóa giải đờm trọc, thúc đẩy khí huyết lưu thông, khứ huyết ứ để có thể hoăn giải và điều trị rối loạn nhịp tim.
(1) Cháo Phục thần {Thái b́nh thánh huệ phương}
Thành phần: Phục thần30g, Linh dương giác 2g, gạo tẻ 100g.
Cách làm và sử dụng: Trước tiên giă nát Phục thần rồi sắc với nước, bỏ bă. Cho gạo tẻ vào nấu thành cháo, thêm bột sừng linh dương 2g trộn đều, dùng nóng. Mỗi ngày một lần, một tuần là một đợt điều trị.
Công hiệu: B́nh can tức phong trấn kinh an thần.
Ứng dụng: Cháo được sử dụng trên lâm sàng cho chứng hồi hộp và mất ngủ do can khí quá mức hoặc hoảng sợ. Có tác dụng nhất định đối với những người bị rối loạn nhịp tim nhanh và can khí quá mức.
(2) Thang Thuỷ chi {Ẩm soạn phục thực phổ}
Thành phần: Hạt sen (hạt sen) khô 500g, bột cam thảo 30g. Cách làm và sử dụng: Xào sen khô c̣n vỏ cho gịn, cho bột cam thảo vào xào sơ, xay chung thành bột mịn, cho qua rây 100 mắt. Mỗi lần dùng 15-20g, thêm ít muối, đun sôi và điều chỉnh liều lượng.
Công hiệu: Thông tâm, ích tinh, kiện tỳ, trấn kinh.
Công dụng: Dùng trên lâm sàng cho các chứng tâm tỳ hư nhược, ăn không tiêu, hồi hộp, mất ngủ và các chứng bệnh khác. Có tác dụng nhất định đối với chứng rối loạn nhịp tim do thiếu khí huyết và hai tạng tâm tỳ đều hư. Có thể ăn thường xuyên.
(3) Cháo long nhăn (“Điều đàm ẩm thực biện”)
Thành phần: Long nhăn nhục 30g, gạo nếp hoặc gạo nếp than 100g, đường phèn lượng thích hợp.
Cách chế biến: Trước tiên nấu gạo nếp với lượng nước thích hợp thành cháo, gần chín cho nhăn nhục và đường phèn vào, nấu khoảng 10-15 phút là được. Ăn cháo ấm, ngày 1 lần, 1 tuần là một liệu tŕnh.
Công hiệu: An thần, định hồn phách, liễm mồ hôi.
Ứng dụng: Ứng dụng lâm sàng cho những bệnh nhân bồn chồn bất an, trống ngực, mệt mỏi và đổ mồ hôi. Đối với chứng rối loạn nhịp tim do khí huyết không đủ, hoặc sợ hăi, có tác dụng trấn an thần kinh. Những người có nội hoả (nóng trong) không được sử dụng.
(4) Cháo Cẩu kỷ Long nhăn (Phương kinh nghiệm)
Thành phần: Cẩu kỷ 10g, Long nhăn nhục 10g, Bá tử nhân 10g (đă bóc vỏ, để sạch nhân), táo tàu 5-10 quả, gạo tẻ 50-100g (có thể gia giảm tùy theo lượng ăn của mỗi người).
Cách chế biến: Trước tiên cho gạo tẻ và táo tàu cùng lượng nước vừa đủ vào cháo, gần chín th́ cho thêm kỷ tử, nhăn nhục, bách bộ nhân vào nấu khoảng 10-15 phút là được. Ăn cháo ấm. 7 đến 10 ngày là một đợt điều trị.
Công hiệu: Bổ thận ích huyết, dưỡng tâm an thần.
Ứng dụng: trên lâm sàng dùng cho bệnh nhân đau lưng, mệt mỏi, hoa mắt, ù tai, tim hồi hộp, mất ngủ do thận khí hư, tâm huyết không đầy đủ. Nó có hiệu quả đối với rối loạn nhịp tim do thận khí hư và tâm huyết bất túc.
Đơn rượu thuốc chữa hồi hộp (“Thần nghiệm Lương Phương Tập yếu”)
Thành phần: Phục linh 10g, Bá tử nhân 10g, Đương quy thân 10g, Sinh địa 15g, Táo nhân 10g, Long nhăn 20g.
Cách làm và cách uống: 7 vị thuốc trên cho vào b́nh, thêm 1000-1500ml rượu trắng, ngâm 7 ngày là dùng được. Mỗi lần uống 15-20 ml, một lần vào buổi sáng và tối. 30 ngày là một đợt điều trị.
Công năng: Bổ huyết an thần, ninh tâm ích trí.
Công dụng: Trên lâm sàng dùng chữa chóng mặt, mệt mỏi do tâm huyết hư thiểu, có tác dụng dưỡng huyết an thần. Có tác dụng nhất định đối với các loại rối loạn nhịp tim do thiếu máu ở tim.
(6) Rượu tráng dương ích tâm (Phương kinh nghiệm)
Thành phần: Lộc nhung 5g, Kỷ tử 15g, Đương quy 10g, Tế tân 5g, Hồng sâm 10g, Đông trùng hạ thảo 10g, Sinh địa 10g, Quế chi 10g, Khương hoạt 10g, Chỉ thực 10g.
Cách làm và phép uống: Cho 10 vị thuốc trên vào b́nh, thêm 1000ml rượu trắng, ngâm 1 tuần là dùng được. Mỗi lần uống 15-20 ml, ngày 1 lần vào buổi sáng và tối. 30 ngày là một đợt điều trị.
Công hiệu: Bổ thận tráng dương, Chấn hưng hung dương.
Công dụng: Lâm sàng ứng dụng điều trị các chứng như hoa mắt chóng mặt, mệt mỏi ớn lạnh, hồi hộp do tâm dương bất túc, mệnh hoả hư suy. Có tác dụng bồi bổ mệnh hoả, phấn chấn hung dương (dương lồng ngực). Thuốc rượu được sử dụng để điều trị nhịp tim chậm xoang, hội chứng xoang bị bệnh và những người thiên về khí hư và dương hư. Người có nội hỏa không nên dùng.
(7) Rượu Sâm tô (Phương kinh nghiệm)
Thành phần: 10g Hồng sâm, 10g Tô mộc, 6g Hồng hoa, 10g Trần b́, 10g cam thảo.
Điều chế và sử dụng: Cho 5 vị thuốc vào b́nh, thêm 500ml rượu trắng, ngâm 1 tuần là dùng được. Một lần uống 20ml, ngày 2 lần vào buổi sáng và tối. 20 ngày là một đợt điều trị.
Công hiệu: Bổ khí hoạt huyết, trấn kinh an thần.
Công dụng: Trên lâm sàng dùng chữa tức ngực, hồi hộp, mất ngủ do huyết ứ, lưỡi đỏ tía hoặc có ban ứ huyết. Nó có tác dụng nhất định đối với rối loạn nhịp tim do khí hư huyết ứ.
Khí công ngăn ngừa và điều trị rối loạn nhịp tim như thế nào?
Tâm trạng thoải mái, t́nh cảm ổn định, sinh hoạt điều độ, vận động hợp lư rất cần thiết và có lợi cho việc pḥng và điều trị rối loạn nhịp tim. Các bài tập “Điều tâm” (调心) điều chỉnh tâm trí và “Điều tức” (调息)điều chỉnh hơi thở của khí công đă được chứng minh bằng các thí nghiệm khoa học và quan sát lâm sàng có thể khiến tuần hoàn máu có những biến hoá sau đây.
(1) Sau khi luyện công nhập tĩnh, có thể khiến nhịp tim chậm lại, thậm chí nhịp tim có thể được khống chế để làm cho tăng nhanh hơn hoặc giảm chậm lại.
(2) Luyện công có thể nâng cao sức co bóp của cơ tim, điều chỉnh cung lượng tim, theo động tác hô hấp, khi hít vào lớn hơn thở ra th́ cung lượng tim tăng, thở ra lớn hơn hít vào th́ cung lượng tim giảm. Đồng thời, trái tim tăng lớn có thể được co lại ở các mức độ khác nhau. Sau khi “Nhập tĩnh”, cung lượng tim giảm xuống, cho thấy nhu cầu về máu và oxy của cơ thể đều giảm.
(3) Người luyện công giỏi có thể khống chế huyết áp lên xuống, người huyết áp thấp có thể tăng huyết áp, người huyết áp cao có thể hạ huyết áp.
(4) Người luyện công có thể điều phối lại khí huyết, tăng lưu lượng máu ở nơi tập trung tâm trí, và tâm trí có thể điều động sự phân phối lại lưu lượng máu.
(5) Luyện công có thể làm tăng số ṿng mao mạch, cải thiện lưu lượng máu và cung cấp máu.
(6) Luyện công có thể tăng cường tính thông thấu (thấm) của mao mạch.
(7) Cải thiện thể tích máu tuần hoàn tim phổi và giảm áp lực động mạch phổi.
Có thể thấy khí công mang lại nhiều tác dụng có lợi cho hệ tim mạch. Các bài tập khí công có thể tăng cường chức năng điều chỉnh và kiểm soát của cơ thể con người, cải thiện trạng thái chức năng tim mạch và là một biện pháp phụ trợ hiệu quả để ngăn ngừa và điều trị rối loạn nhịp tim.
Trung y ngăn ngừa rối loạn nhịp tim như thế nào?
Y học cổ truyền chú trọng pḥng bệnh trước, nhấn mạnh “Bất trị dĩ bệnh, trị vị bệnh, bất trị dĩ loạn, trị vị loạn” (不治已病,治未病,不治已乱,治未乱)Điều trị bệnh từ khi chưa bị bệnh và trị loạn từ khi chưa loạn, muốn được như vậy nên bắt đầu từ những điểm sau.
(5) Giữ ǵn tinh thần vui vẻ
Y học cổ truyền Trung Quốc cho rằng hoạt động của thất t́nh đóng vai tṛ điều phối các chức năng sinh lư của cơ thể, nhưng nếu thất t́nh quá nhiều và vượt quá phạm vi tự điều tiết của cơ thể con người, sẽ ảnh hưởng đến công năng của tạng phủ, khí huyết sẽ bị rối loạn dẫn đến bệnh tật.
Trong bảy loại cảm xúc, chỉ có niềm vui là kích thích lành tính, niềm vui là ư chí của trái tim, tiếng cười là âm thanh của trái tim, duy tŕ tâm trạng lạc quan rất tốt cho sức khỏe. Nếu bạn ưu uất, sợ hăi, bi thương, buồn bă lâu ngày, bạn sẽ dễ mất cân bằng và sinh bệnh.
V́ vậy, chúng ta nên giảm bớt ham muốn ích kỷ, dưỡng tâm, hạn chế ưu tư lo nghĩ, lạc quan, loại bỏ ḷng đố kỵ, tăng cường tu dưỡng đạo đức và thư giăn cảm xúc. Người bệnh nên biến đổi để thu được những thuận lợi trong điều trị bệnh, đó gọi là di t́nh dị tính (移情易性) là thay đổi trạng thái tính t́nh không tốt và có niềm tin vững chắc sẽ chiến thắng bệnh tật.
(2) Chọn môi trường sống thích hợp
Con người và thiên nhiên là một thể thống nhất hữu cơ, môi trường sống có tác động rất lớn đến sự tồn tại và sức khỏe của con người. Một môi trường sống phù hợp có thể đảm bảo tiến độ học tập và làm việc b́nh thường, đồng thời nâng cao sức khỏe và tuổi thọ. Môi trường sống thích hợp cho con người phải bao gồm nước sạch, không khí trong lành, nhiều ánh sáng mặt trời, thảm thực vật tươi tốt, không gian trong nhà rộng răi, vừa phải, ánh sáng cân bằng, thông gió tự nhiên tốt.
(3) Có thói quen hàng ngày hợp lư
Sinh hoạt đều đặn là yêu cầu cơ bản để giữ ǵn sức khỏe, chỉ khi bạn có thể thức ngủ đúng giờ và sống một cuộc sống điều độ, bạn mới có thể phát huy tối đa năng lượng và nâng cao khả năng thích ứng với môi trường.
Điều chỉnh quần áo có liên quan chặt chẽ đến sức khỏe thể chất. Quần áo nên tùy theo người, thời điểm, điều kiện địa phương mà điều chỉnh, vừa phải để có chức năng bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.
(4) Làm việc và nghỉ ngơi điều độ
Làm việc và nghỉ ngơi hợp lư là khâu quan trọng đảm bảo khí trong cơ thể vận động thông suốt, huyết mạch điều ḥa, ngũ tạng an ḥa. Tham lam quá độ và làm việc quá sức có thể dẫn đến khí huyết lưu thông kém và sinh ra bệnh tật. Do đó, nên thực hiện các bài tập thể dục phù hợp.
(5) Chế độ ăn uống phù hợp
Khẩu phần ăn cần được điều phối toàn diện, phù hợp với từng người, ḥa quyện ngũ vị, cung cấp dinh dưỡng toàn diện. Chú ư thời gian, số lượng và vệ sinh khi ăn uống, chú ư tránh đồ ăn nhiều dầu mỡ, đồ ăn ngon, đồ sống hoặc đồ lạnh. Ăn nhiều thực phẩm dưỡng khí huyết, bổ tâm khí, bổ tâm âm như tiểu mễ (hạt kê), táo tàu, trứng, đường nâu, Long nhăn, Hồ đào, cá các loại. Đồng thời phải bỏ hút thuốc và uống rượu.

Chú giải:
*Tâm thận bất giao là hiện tượng bệnh lư của sinh lư hiệp điều thất thường của hai tạng tâm và thận. Thường do thận âm hư tổn, âm tinh không thăng lên (thượng thừa) khiến tâm hoả mạnh, không thể hạ giáng mà ra. Tâm ở thượng tiêu, thuộc hoả, Thận ở hạ tiêu thuộc thuỷ. Dương trong tạng tâm hạ xuống đến tạng thận, để có thể ôn dưỡng (nuôi nấng ấm áp) thận dương; Âm trong tạng thận thăng lên đến tạng tâm để có thể hàm dưỡng (nuôi nấng bao dung) âm của tạng tâm.
* Nhịp tim nhanh trên thực tế là một thuật ngữ thông dụng. Khi bạn đột nhiên cảm thấy tim ḿnh đập loạn, bất luận bạn có nhận biết được hay không, nhịp tim của bạn đột ngột tăng lên, chậm lại, nhảy vọt hoặc mạnh hơn. Những cảm giác đập bất thường này được gọi là tâm quư (hồi hộp, trống ngực).
* B́nh can chính là duy tŕ can âm, để câm âm khống chế can dương, ngăn ngừa can dương quá mạnh (thượng kháng), âm dương của tạng can hài hoà thống nhất, có tác dụng duy tŕ sinh lư b́nh thường của tạng can.
*Mạch kết, mạch đại (đổi)
Mạch đập một số lần rồi ngừng. mạch kết th́ sống, mạch đại th́ chết.
Mạch đại nhịp đập chậm và ngừng có quy luật, như sau 5 lần đập ngừng một lần; Hoặc sau 3 lần đập ngừng 1 lần, thậm chí có khi đập 2 lần ngừng một lần.
Hai đặc điểm của mạch đại (đổi)
1/ Lương cửu phương lai, là thời gian ngừng lại khá dài, thời gian ngừng tương đương với tần suất mạch tŕ, tức là “tŕ trung nhất chỉ, lương cửu phương lai” (迟中一止,良久方来) Mạch tŕ ngừng một lần, là lương cửu phương lai , điều này phù hợp với mạch kết đại trong “Thương hàn luận”. Trên lâm sàng có thể thấy ở chứng Bệnh thái đậu pḥng kết tổng hợp (nhịp tim nhanh chậm không đều).
2/ Mạch ngừng có định số, chỉ về mạch ngừng đập có quy luật, tần suất mạch b́nh thường. Trên lâm sàng có thể thấy ở t́nh trạng mạch đập sớm h́nh thành nhị liên luật, tam liên luật… Mạch đại chủ tạng khí suy vi, bệnh nghiêm trọng. Có khi là chứng đau, sợ hăi cũng có thể xuất hiện đại mạch, đó chính là tâm khí bất hoà, mạch khí không thuận tiếp (thuận liền lạc) gây ra, khi thấy mạch này, không nhất định là bệnh nghiêm trọng. Tóm lại, mạch đại thường là biểu hiện của tâm khí tuyệt, bệnh tạng tâm. Mạch chậm và mạch ngừng lại có quy tắc, và thời gian ngừng khá dài. Mà đặc điểm của mạch là tiết luật của mạch khi ngừng lại hoặc yếu đi luôn tỉ lệ, có thấy thấy dạng nhị liên luật (mạch đập 1 lần, ngừng 1 lần, hoặc một mạnh một yếu), hoặc tam liên luật ( hai đập một ngừng hoặc hai mạnh một yếu) đến ngũ liên luật.
Mạch đại chủ tạng khí suy vi, chứng phong, chứng đau, sợ hăi, tổn thương do té ngă, đánh đập. Tạng khí suy vi, nguyên khí không đủ, làm cho mạch khí không liên tiếp mà xuất hiện mạch đại. Các chứng như phong, đau, sợ hăi, té ngă đánh đập cũng làm cho mạch khí không liên tục dẫn đến xuất hiện mạch đại. Những người có thể chất dị thường hoặc phụ nữ mang thai cũng có thể xuất hiện mạch đại, nhưng mạch tượng có lực, nhu hoà, đều đặn th́ không nên coi đó là mạch bệnh. Khi đau đớn quá độ hoặc khi đột nhiên sợ hăi, khí huyết nghịch loạn mà tạm thời xuất hiện mạch đại, không giống với mạch đại do tạng khí suy yếu, chỉ là hiện tượng nhất thời. Mạch đại bắt nguồn từ tạng tâm mạch đập quá sớm, hoặc pḥng thất truyền đạo đ́nh trệ, gặp ở các loại bệnh của tạng tâm có tính khí chất. Trên lâm sàng, mạch đại thường đi kèm với mạch kết, chủ chứng phong. Nên chú ư phân biệt mạch đại với mạch kết và mạch xúc. Cả ba đều là những mạch tượng không có tiết luật, nhưng mạch kết và mạch xúc là mạch ngừng không có quy tắc, thời gian mạch ngừng ngắn, sau khi mạch ngừng lại có những mạch đập tương đối khá nhanh; Mạch đại là mạch ngừng có quy tắc, thời gian mạch ngừng dài, sau khi ngừng mạch đập không tăng nhanh.
Trường Xuân dịch
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-02-29 18:15:15.0
SUY GIĂN TĨNH MẠCH


Những người nào dễ bị suy giăn tĩnh mạch?
1/ Phụ nữ mang thai: Khi mang thai, tử cung to lên, chèn ép các tĩnh mạch chậu khiến áp lực tĩnh mạch tăng cao, xuất hiện t́nh trạng giăn tĩnh mạch, đồng thời lưu lượng máu vùng chậu tăng lên khi mang thai ảnh hưởng đến quá tŕnh trào ngược máu vùng bụng dưới. tứ chi, đồng thời cũng là một trong những yếu tố gây bệnh.
2/ Bệnh nhân u vùng chậu: Các u vùng chậu và hạch ph́ đại chèn ép các tĩnh mạch chậu, gây tăng áp lực tĩnh mạch ở chi dưới và dễ bị giăn tĩnh mạch.
3/ Bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch sâu: Huyết khối tĩnh mạch sâu ngăn chặn sự quay trở lại của máu trong tĩnh mạch sâu, làm tăng gánh nặng cho các tĩnh mạch nông và gây ra sự giăn nở bù trừ của các tĩnh mạch nông.
4/ Giáo viên, nhân viên bán hàng, tiếp viên và nhân viên phải đứng lâu, do trọng lực, huyết áp tác động lên các van tĩnh mạch, nếu cứ tiếp tục như vậy th́ chức năng của van tĩnh mạch sẽ bị tổn thương và máu sẽ không chảy trở lại b́nh thường.
5/ Bệnh nhân bị chấn thương tĩnh mạch bắp chân: Do vết thương ở thành tĩnh mạch nông và van thành tĩnh mạch, tính đàn hồi của thành và chức năng của van có thể bị ảnh hưởng sau khi lành, dẫn đến giăn tĩnh mạch ở vị trí bị thương.
6/ Người già và những người có thành tĩnh mạch yếu bẩm sinh bắt đầu thoái hóa, chức năng của van cũng yếu đi, ở những người có thành tĩnh mạch bẩm sinh yếu, tĩnh mạch thiếu đàn hồi, dễ giăn ra, khi áp lực tĩnh mạch tăng, ḷng tĩnh mạch giăn ra, gây ra Van tĩnh mạch không đủ khiến máu chảy ngược và tăng áp lực tĩnh mạch nên lúc đầu tĩnh mạch giăn ra, sau đó dài ra và uốn cong thành các kết tiết (nốt sần) tĩnh mạch.

Các biến chứng của suy giăn tĩnh mạch là ǵ?
Giăn tĩnh mạch là bệnh phổ biến và khó điều trị, thường kéo dài hàng chục năm mà không cải thiện. Những người bị giăn tĩnh mạch trong thời gian dài dễ gặp phải nhiều biến chứng khác nhau:
(1) H́nh thành vết loét, c̣n gọi là loét giăn tĩnh mạch. Do máu ứ đọng lâu ngày trong tĩnh mạch, áp suất thẩm thấu mao mạch tăng cao, gây phù nề các mô xung quanh, giảm sức đề kháng của mô tại chỗ, dễ xảy ra loét khi bị tổn thương nhẹ. Loét thường xảy ra ở phần trên của mắt cá trong và 1/3 dưới của bắp chân. Phổ biến hơn ở người trung niên hoặc người già.
(2) Viêm tắc tĩnh mạch do giăn tĩnh mạch: Do máu ứ đọng lâu ngày, huyết khối có thể h́nh thành ở tĩnh mạch giăn, dẫn đến viêm thành tĩnh mạch.
(3) Vỡ và chảy máu các nốt giăn tĩnh mạch: Thành của các nốt giăn tĩnh mạch mỏng và thường bám vào vùng da bị teo, tổn thương nhẹ dễ gây vỡ và chảy máu.

Tại sao giăn tĩnh mạch lâu ngày lại gây loét ở cẳng chân?
Bệnh nhân bị giăn tĩnh mạch lâu dài có thể bị phù nề mô nhiều hơn do ứ đọng tĩnh mạch, dẫn đến những thay đổi về da giống như bệnh chàm. Khi da bị ngứa, người bệnh sẽ vô t́nh găi, làm trầm trọng thêm những thay đổi giống như bệnh chàm, dẫn đến bào ṃn và loét.
Ngoài ra, bệnh nhân giăn tĩnh mạch có thành tĩnh mạch yếu, áp lực tĩnh mạch cao, lượng máu cung cấp tại chỗ không đủ khiến cơ và mô mỡ bị teo, các tĩnh mạch giăn tĩnh mạch nhô ra dưới da, tổn thương nhẹ có thể gây loét và dễ tổn thương vách tĩnh mạch. Loại loét này thường xảy ra ở phần trên của mắt cá trong và 1/3 dưới của bắp chân. Do lượng máu cung cấp đến mô không đủ nên mô xung quanh vết loét trở nên mỏng hơn, da trở nên đen và cứng, vết loét lâu ngày không lành. Dễ tái phát sau khi hồi phục.

Làm thế nào để điều trị chứng giăn tĩnh mạch và biến chứng?
Đối với bệnh giăn tĩnh mạch, việc pḥng ngừa hiện là trọng tâm chính, làm chậm triệu chứng và ngăn ngừa biến chứng, đối với bệnh giăn tĩnh mạch nặng, điều trị bằng phẫu thuật thường được xem xét. Các phương pháp điều trị phổ biến bao gồm:
(1) Mang vớ co giăn, đối với những bệnh nhân bị giăn tĩnh mạch nhẹ và không có triệu chứng rơ ràng, họ có thể mang vớ co giăn trong thời gian dài, hoặc dán băng thun, hoặc dùng xà cạp quấn toàn bộ bắp chân từ bàn chân trở lên, có thể pḥng ngừa và cải thiện t́nh trạng giăn tĩnh mạch nhẹ ở chi dưới, cải thiện sự hồi lưu tĩnh mạch của chi dưới và ngăn chặn sự phát triển liên tục của nó.
(2) Điều trị bằng phẫu thuật: Phương pháp này phù hợp với những bệnh nhân bị giăn tĩnh mạch nặng và có triệu chứng rơ ràng. Chụp tĩnh mạch sâu nên được thực hiện trước khi phẫu thuật để xác nhận sự thông suốt của tĩnh mạch sâu. Hiện nay, ba phương pháp phẫu thuật thường được sử dụng là thắt vị trí cao, bóc và cắt tĩnh mạch, thắt nhánh thông dưới cân, tùy theo t́nh trạng bệnh nhân khác nhau mà sử dụng các phương pháp khác nhau.
3/ Trong y học cổ truyền, hội chứng của bệnh này chủ yếu là khí trệ huyết ứ, mạch lạc không thông.
Trị pháp: Hành khí hoạt huyết, hóa ứ thông lạc.
Xử phương: Huyết phủ trục ứ thang . Sinh địa 30g, Đương quy 15g, Xích thược 10g, Xuyên khung 10g, Đào nhân 10g, Hồng hoa 6g, Ngưu tất 15g, Sài hồ 10g, Chỉ xác 10g, chích Cam thảo 6g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang
Để điều trị các biến chứng của nó, có các phương pháp sau:
1/ Loét bắp chân mạn tính, giăn tĩnh mạch và loét bắp chân mạn tính rất khó lành, ngoài việc tích cực điều trị chứng giăn tĩnh mạch chi dưới, cần kiểm soát nhiễm trùng, bôi kháng sinh tại chỗ hoặc toàn thân, làm sạch bề mặt vết loét. Y học cổ truyền phân biệt hội chứng này là khí hư và huyết ứ, phương pháp điều trị thích hợp là Bổ khí hoạt huyết sinh cơ, kích hoạt tuần hoàn máu và thúc đẩy tăng trưởng cơ bắp, dùng phương : Bổ dương hoàn ngũ thang: Hoàng kỳ 15g, Đương quy 15g, Xuyên khung 6g, Ngưu tất 15g, Đào nhân 10g, Hồng hoa 6g, Thái tử sâm 15g, chích Cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang. Cục bộ bên ngoài có thể đắp dầu tṛng đỏ trứng. Phép chế dùng 5~6 quả trứng luộc chín, bóc lấy ḷng đỏ, dùng một ít dầu thực vật đun nóng, chiên ḷng đỏ trứng đến khi khô, bỏ bă lấy dầu, bôi vào nơi bị bệnh, ngày 2 lần.
2/ Giăn tĩnh mạch thấp chẩn. Biện chứng của y học cổ truyền cho bệnh này phần lớn thuộc thấp nhiệt, huyết mạch không thông.
Trị pháp: Thanh nhiệt trừ thấp, hoạt huyế thông lạc.
Xử phương: Hoạt huyết Tứ diệu thang: Thương truật 6g, Hoàng bá 15g, Ư rĩ 30g, Ngưu tất 15g, Đào nhân 10g, Hồng hoa 10g, Sinh địa 20g, Đan b́ 10g, Xích thược 15g. Sắc uống, ngày 1 thang.
Người bị giăn tĩnh mạch cần lưu ư điều ǵ?
1/ Tránh đứng hoặc đứng lâu và tránh để chi dưới chịu sức nặng. Đối với những người phải đứng lâu như giáo viên, nhân viên bán hàng, tiếp viên…, khi bị giăn tĩnh mạch th́ nên thay đổi nghề nghiệp càng sớm càng tốt để tránh khiến t́nh trạng nặng thêm và gây biến chứng.
2/ Những bệnh nhân bị giăn tĩnh mạch nhẹ và không có triệu chứng lâm sàng rơ ràng có thể dùng băng thun hoặc quần legging quấn bắp chân trong thời gian dài để ngăn chặn sự phát triển tiếp tục của chúng. Những người đứng lâu cũng có thể sử dụng băng thun để ngăn ngừa chứng giăn tĩnh mạch.
3/ Thực hiện chính xác của vận động phần chân, bạn có thể nằm ngửa trên giường, đạp xe, nâng cao chân, gập và duỗi chân, v.v., có thể tăng cường độ đàn hồi của cơ chân, giúp máu lưu thông và làm chậm chứng giăn tĩnh mạch.
4/ Có thể kết hợp với các liệu pháp vật lư trị liệu như massage, đèn hồng ngoại, các liệu pháp vật lư trị liệu này có tác dụng thúc đẩy tuần hoàn máu, giúp máu lưu thông, giảm áp lực tĩnh mạch.
(5) Tránh để lại vết bầm tím ở bàn chân và cẳng chân, v́ giăn tĩnh mạch h́nh thành các nốt sần tĩnh mạch. Thành của các nốt sần tĩnh mạch mỏng và thường bám vào vùng da bị teo. Chấn thương nhẹ có thể gây vỡ và chảy máu, loại chảy máu này rất khó cầm . Ngoài ra, quá tŕnh tuần hoàn máu tại chỗ của người bị giăn tĩnh mạch bị suy giảm, tổn thương da khi vỡ ra sẽ khó lành, bào ṃn và loét dễ bị nhiễm trùng do lâu ngày không đóng lại, gây ra các biến chứng nghiêm trọng. Việc găi quá nhiều cũng có thể gây ra những hư hỏng nêu trên. V́ vậy, bệnh nhân bị giăn tĩnh mạch nên tránh va chạm gây bầm tím và găi quá nhiều ở phần dưới chân.
Lương y Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-03-02 15:53:53.0
BỆNH TẬT VÀ RỐI LOẠN NHỊP TIM


Tham khảo tư liệu:
Những bệnh nào có liên quan mật thiết với rối loạn nhịp tim?
Chứng loạn nhịp tim thường gặp nhất ở những người mắc bệnh tim, nhưng chúng cũng có thể xảy ra ở những người có tim b́nh thường. Về mặt lâm sàng, nó thường liên quan chặt chẽ đến các bệnh sau.
1/ Các bệnh tim hữu cơ khác nhau: Bệnh tim mạch vành, đặc biệt là nhồi máu cơ tim cấp tính, viêm cơ tim, bệnh cơ tim, suy tim, bệnh thấp khớp (phong thấp tính tâm tạng bệnh), v.v., đặc biệt dễ bị rối loạn nhịp tim.
2/ Rối loạn điện giải và tác dụng của thuốc: Tăng kali máu gặp ở bệnh nhân công năng thận bất toàn, nhiễm toan, sốc và dùng quá nhiều kali. Hạ kali máu gặp ở t́nh trạng đói, suy dinh dưỡng, nôn mửa, tiêu chảy, cắt ruột non, giảm lượng ăn vào và mất kali quá mức. Trong quá tŕnh ứng dụng dương địa hoàng, nếu đồng thời xảy ra t́nh trạng mất cân bằng điện giải th́ dễ gây rối loạn nhịp tim.
(3) Nhiễm trùng và ảnh hưởng của virus: Nhiều loại nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc virus khác nhau có thể đi kèm với nhiều chứng rối loạn nhịp tim khác nhau. Chẳng hạn như cảm lạnh, sốt, viêm amidan, viêm họng, v.v. Một số có thể là tạm thời và có thể phục hồi sau khi loại bỏ các tổn thương nhiễm trùng, trong khi một số trở thành vĩnh viễn và khó phục hồi.
(4) Các rối loạn nội tiết khác nhau: bao gồm cường giáp và suy giáp, rối loạn chức năng tuyến thượng thận và dạng trở ngại chức năng của tuyến tụy, chẳng hạn như cường aldosteron (醛固酮), nhiễm toan do tiểu đường và hạ đường huyết tự phát, v.v., cũng có thể gây ra các chứng rối loạn nhịp tim khác nhau.

Tại sao cảm lạnh và sốt lại gây rối loạn nhịp tim?
Một số bệnh nhân thường cảm thấy “tâm hoảng” (心慌) là hoảng hốt khi bị cảm lạnh hoặc sốt, đồng thời cảm thấy nhịp tim tăng nhanh hoặc không đều. Điều này là do nhiễm virus hoặc vi khuẩn và cơ chế sinh bệnh lư của nó có tính tổng hợp.
Khi sốt, mạch và nhiệt độ cơ thể tăng song song, cứ nhiệt độ cơ thể tăng 1 độ th́ nhịp tim tăng 8-10 nhịp/phút. Sự tăng nhịp tim một phần là do tác động trực tiếp của nhiệt độ cơ thể lên bộ phận điều ḥa nhịp tim và một phần là do lưu lượng máu hồi lưu tăng lên.
Do đó có thể thấy cảm lạnh và sốt có thể gây rối loạn nhịp tim qua các khía cạnh sau.
1/ Khi cảm lạnh và sốt, lưu lượng máu đến tim tăng lên, nhịp tim tăng nhanh và lượng oxy tiêu thụ tăng lên, điều này có thể gây rối loạn nhịp tim ở những bệnh nhân có khả năng bù đắp của tim không ổn định và khả năng dự trữ thấp.
2/ Khi bị cảm mạo và sốt, mặc dù thể tích máu thay đổi không đáng kể nhưng lưu lượng hồng cầu từ nơi dự trữ vào máu lại tăng lên, làm tăng thể tích hồng cầu và huyết cầu (hematocrit), dẫn đến tăng độ nhớt của máu, tăng sức đề kháng của tim và xuất hiện rối loạn nhịp tim.
3/ Cảm lạnh và sốt có ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng của tim, chẳng hạn như cảm mạo và sốt, độ băo ḥa oxy trong máu động mạch toàn thân giảm và tim hoạt động trong điều kiện thiếu oxy tương đối, dễ gây rối loạn nhịp tim.
4/ Tác dụng trực tiếp của chất độc truyền nhiễm. Vi khuẩn làm tổn thương cơ tim hoặc chất độc do vi khuẩn bên ngoài tim thải ra có thể làm hỏng van tim, màng ngoài tim, dây thần kinh cơ tim và động mạch vành. Các chất độc thần kinh như bệnh bạch hầu có thể làm tổn thương các dây thần kinh ở tim, dây thần kinh ngoài tim và năo. Những chất độc thần kinh này sẽ ảnh hưởng đến nhịp tim, sự dẫn truyền và phục cực của tim, dẫn đến rối loạn nhịp tim.
5/ Viêm cơ tim do virus. Virus gây tổn hại trực tiếp đến hệ thống dẫn truyền của tim và có thể gây rối loạn nhịp tim.

Nhổ răng có gây rối loạn nhịp tim không?
Khi bệnh nhân đến bệnh viện điều trị đau răng, các bác sĩ nha khoa thường hỏi: “Bạn có bị bệnh tim không? Cao huyết áp?” Tại sao lại như vậy?
Điều này là do việc nhổ răng có thể gây ra nhiều chứng rối loạn nhịp tim khác nhau, dẫn đến khởi phát bệnh tim và tăng huyết áp. Cơ chế của nó là dây thần kinh sọ thứ năm kích thích hệ thần kinh tự chủ, đồng thời liên quan đến sự hưng phấn của dây thần kinh giao cảm do bệnh nhân lo lắng, sợ hăi, giảm đau không hoàn toàn khi nhổ răng và tăng tiết catecholamine nội sinh (内源性儿茶酚胺).
Các rối loạn nhịp tim thường gặp khi nhổ răng bao gồm: nhịp tim nhanh, bao gồm nhịp nhanh xoang, nhịp thất sớm, nhịp nhĩ sớm, nhịp nhanh kịch phát và rung nhĩ; rối loạn nhịp xoang có thể gặp trong rối loạn nhịp tim chậm, có tính ranh giới chung của tâm luật v.v.
Tại sao bệnh nhân cường giáp lại bị rối loạn nhịp tim?
Bệnh cường giáp chủ yếu là do chức năng tuyến giáp tăng lên và tăng tiết thyroxine làm tăng nồng độ hormone tuyến giáp trong tuần hoàn máu. Tăng hormone tuyến giáp có thể kích thích các dây thần kinh giao cảm và tủy thượng thận, tăng nồng độ catecholamine trong máu, tăng thụ thể β-adrenergic, v.v., và hormone tuyến giáp có thể tác động gián tiếp hoặc trực tiếp lên cơ tim và mạch máu ngoại biên, làm tăng co bóp cơ tim và tăng nhịp tim. , thể tích đột quỵ tăng, mức tiêu thụ oxy tăng, lưu thông máu tăng và rối loạn nhịp tim có thể xảy ra.

Tại sao bệnh xơ vữa động mạch lại gây rối loạn nhịp tim?
Bệnh xơ vữa động mạch là một trong những bệnh phổ biến ở nước tôi. Bệnh nhân bị xơ vữa động mạch có rối loạn chuyển hóa lipid, dẫn đến lắng đọng một lượng lớn lipid ở các mảng bám ở nội mạc động mạch, dẫn đến hẹp ḷng động mạch, thậm chí gây tắc nghẽn. Trong đó, xơ vữa động mạch vành là phổ biến nhất. Nếu xơ vữa động mạch vành xảy ra, lượng máu cung cấp cho tuần hoàn mạch vành sẽ không đủ, có thể dẫn đến lượng máu cung cấp cho hệ thống dẫn truyền không đủ. Bởi v́ bệnh liên quan đến hệ thống dẫn truyền và làm suy yếu dẫn truyền xung động nên nó có thể gây ra nhiều chứng rối loạn nhịp tim khác nhau.

Bệnh nhân cường giáp thường biểu hiện những loại rối loạn nhịp tim nào?
Rối loạn nhịp tim ở bệnh nhân cường giáp thường biểu hiện như nhịp tim nhanh xoang, rung tâm nhĩ và các rối loạn nhịp tim khác; nếu có bệnh tim cường giáp, rung tâm nhĩ kịch phát hoặc dai dẳng, co thắt tâm nhĩ sớm và rung tâm nhĩ có thể xảy ra. Rối loạn nhịp tim như nhịp tim nhanh và cuồng nhĩ.

Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim ở bệnh cường giáp là ǵ?
Ngoài các triệu chứng của tốc độ trao đổi chất cao như thèm ăn, sụt cân, mệt mỏi, cáu kỉnh, nóng nảy, không dung nạp nhiệt, đổ mồ hôi nhiều và hiệu quả làm việc thấp, cường giáp c̣n có thể gây ra nhịp tim không đều, nhịp tim sớm và nhịp tim xoang. nhịp tim nhanh, rung và cuồng nhĩ kịch phát hoặc dai dẳng, và block nhĩ thất. Khi những rối loạn nhịp tim này xảy ra, bệnh nhân có thể gặp biểu hiện lâm sàng là đánh trống ngực, khó thở và nhịp tim tăng lên 90 đến 120 nhịp/phút, đặc điểm đặc biệt là nhịp tim không chậm lại trong khi ngủ. Khi khám thực thể, có thể thấy chênh lệch huyết áp ngày càng lớn và tim to ra. Trong quá tŕnh nghe tim, âm thanh của tim tăng lên, tiếng tim đầu tiên tăng cường ở vùng đỉnh và có thể nghe thấy tiếng thổi giống gió tâm thu độ 2 đến 3 ở vùng trước tim, rơ ràng nhất ở vùng van phổi. Bệnh nhân nặng thường khó thở, khó thở, ho, ho ra đờm bọt hồng, không nằm được, phù nề 2 chi dưới, nhịp tim nhanh, rale ẩm ở đáy 2 phổi, mạch yếu. chênh lệch áp suất, v.v. Các dấu hiệu và triệu chứng kiệt sức.

Biểu hiện lâm sàng của rối loạn nhịp tim trong bệnh mạch vành là ǵ?
Khi bệnh tim mạch vành thỉnh thoảng xảy ra và nhịp đập sớm, thường không có triệu chứng hoặc chỉ có cảm giác hồi hộp, chóng mặt. Khi nhịp thất sớm xảy ra thường xuyên, bệnh nhân có thể gặp các triệu chứng như đánh trống ngực, khó chịu vùng trước tim, mệt mỏi và khó thở. Khám thực thể: Tiếng tim đầu tiên ở mỏm trầm và đục, nhịp tim không đều và có nhịp đập sớm. Điều này xảy ra do cung lượng tim giảm. Đau thắt ngực cũng có thể xảy ra do bị đánh sớm.




Khi nhịp tim nhanh xảy ra do bệnh tim mạch vành, bạn có thể đột nhiên cảm thấy đánh trống ngực, nhịp tim sẽ tăng lên đáng kể và trở nên đều đặn hơn. Các cơn co giật có thể kéo dài từ vài giây đến vài giờ hoặc thậm chí vài ngày và kèm theo cảm giác sợ hăi, khó chịu. Nếu nhịp tim vượt quá 200 nhịp/phút có thể khiến lượng máu cung cấp đến các cơ quan trong tim không đủ, dẫn đến tụt huyết áp, chóng mặt, buồn nôn, nôn, đau thắt ngực, ngất xỉu hoặc suy tim, thậm chí là hội chứng Albany và đột tử.
Khi bệnh tim mạch vành xảy ra rung tâm thất và rung thất, thường thấy lú lẫn, mất mạch, da không ấm, tưới máu kém rơ ràng, nếu không kịp thời khử rung tim th́ thường tử vong ngay lập tức.
Khi block nhĩ thất xảy ra trong bệnh tim mạch vành, các triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy thuộc vào mức độ block. Block nhĩ thất độ 1 có ít triệu chứng và chỉ có tiếng tim thứ nhất hơi yếu khi nghe; ở block nhĩ thất độ 2 có cảm giác ngừng tim hoặc đánh trống ngực, và có thể bỏ sót tiếng tim khi nghe tim, và xung cũng có thể bị bỏ lỡ tương ứng. Khi nhịp thất chậm, có thể bị chóng mặt, yếu sức, dễ mệt mỏi, khó thở sau khi gắng sức hoặc hoạt động quá sức, thậm chí ngất xỉu tạm thời. Trong block nhĩ thất độ 3, ngoài các triệu chứng trên, lượng máu cung cấp cho tim và năo c̣n có thể không đủ, dẫn đến chậm phát triển tâm thần và ngất bất cứ lúc nào. Trong quá tŕnh nghe tim thai, nhịp tim chậm và đều, từ 35 đến 40 nhịp mỗi phút, âm thanh đầu tiên của tim có cường độ khác nhau, trong một số trường hợp có thể nghe thấy “Đại pháo âm” (大炮音) tiếng đại bác.
Khi nhịp thất quá chậm hoặc ngừng tim, có thể xảy ra t́nh trạng mất ư thức trong thời gian ngắn. Khi ngừng tim kéo dài hơn 15 giây, hội chứng Alzheimer như ngất xỉu, co giật và bầm tím có thể xảy ra.

Lựa chọn đơn thuốc điều trị rối loạn nhịp tim do viêm cơ tim như thế nào?
Chứng loạn nhịp tim do viêm cơ tim thuộc phạm trù “tâm quư” (心悸) trống ngực” và “Hung tí” (胸痹) tắc ngực trong y học cổ truyền. Tâm quư cũng là thuật ngữ chung cho “Kinh quư” (惊悸) sợ hăi và “Chinh xung” (怔忡) lo lắng.
Nguyên nhân bên ngoài của căn bệnh này phần lớn là khí độc gây bệnh hay tà khí phong hàn, phong nhiệt từ bên ngoài xâm phạm vào cơ thể con người khi làm việc quá sức. Nguyên nhân bên trong của bệnh là do tâm huyết không đủ, âm huyết suy yếu.
Bệnh này có thể điều trị bằng y học cổ truyền được phân thành hai loại: Giai đoạn cấp tính và giai đoạn mạn tính:
1/ Giai đoạn cấp tính
①Loại h́nh ngoại cảm phong nhiệt
Triệu chứng: Sốt và ho đột ngột, đánh trống ngực và khó chịu, tức ngực, đau ngực, thậm chí khó thở, mệt mỏi và mệt mỏi trầm trọng hơn sau khi hoạt động thể chất, ăn ngủ đều kém, nước tiểu vàng phân khô, rêu lưỡi trắng và dày hoặc vàng mỏng, hoặc dày nhớt, mạch tế vô lực hoặc mạch kết đại. Khám nghiệm y học hiện đại cho thấy phổ enzyme của cơ tim tương đối cao, số lượng bạch cầu trong xét nghiệm máu thông thường cũng tương đối cao, trên 10.000 đến 20.000 mm3/L, phân loại là trung tính thiên cao. Những thay đổi thiếu máu cục bộ ST-T có thể được nh́n thấy trên điện tâm đồ.
Trị pháp: Thanh nhiệt giải độc, khoan hung (thoải mái lồng ngực) an tâm.
Xử phương: Ngân kiều tán gia giảm.
Kim ngân hoa 20g, Liên kiều 12g, Kinh giới 10g, Đạm trúc diệp 10g, Đại lực tử 10g, Lô căn 15g, Bản lam căn 20g, Ngư tinh thảo 20g, Toàn qua lâu 15g, Cam thảo 6g.
Khi sốt cao gia Thạch cao 30g và Thiên hoa phấn 12g, nếu ho có đờm màu vàng th́ thêm Hoàng cầm 10g, Tang bạch b́ 12g, Tri mẫu 10g.
② Loại h́nh tâm khí hư
Triệu chứng: Có tiền sử ngoại cảm từ nửa tháng đến một tháng, lại do làm việc quá sức mà phát bệnh. Các triệu chứng bao gồm tức ngực và nghẹt thở đột ngột, đau ngực, đánh trống ngực, khó thở, mệt mỏi và đổ mồ hôi, ngủ kém, chán ăn, nước tiểu trong và nhiều, phân lỏng nát, hai hoặc ba lần trong một ngày. Chất lưỡi nhạt, cạnh lưỡi có vết răng, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch trầm tế hoặc tế mà kết đại. Khám nghiệm y học hiện đại cho thấy phổ enzyme cơ tim trong huyết thanh tăng cao. Những thay đổi thiếu máu cục bộ ST-T có thể được nh́n thấy trên điện tâm đồ.
Trị pháp: Bổ ích tâm khí, hóa trọc an thần. (补益心气,化浊安神)
Xử phương: Sinh mạch tán hợp quế chi thang gia vị.
Hồng sâm 6g, Ngũ vị tử 15g, Quế chi 12g, Bạch thược 12g, chích Cam thảo 12g, Hoàng kỳ 20g, Đại táo 10g, Sinh khương 10g, Toàn qua lâu 20g. Nếu thiên về dương khí hư, sợ lạnh chân tay lạnh gia Phụ tử 15g, Pháo khương 10g; Kèm theo chi thể phù thũng tiểu tiện ít gia Phục linh 15g, Xa tiền tử 15g, Trạch tả 12g. Xuất nhiều mồ hôi gia Long cốt 20g, Ma hoàng căn 10g, Phù tiểu mạch 15g.

2/ Giai đoạn mạn tính
① Loại h́nh khí âm suy yếu:
Triệu chứng: Trống ngực, khó thở, mệt mỏi và suy nhược, sắc mặt không tươi, đổ mồ hôi (tự hăn), đổ mồ hôi ban đêm (đạo hăn), miệng họng khô. Vận động nhẹ cũng làm trầm trọng thêm các triệu chứng như đánh trống ngực, khó thở và mệt mỏi. Đêm ngủ kém và chán ăn, đại tiểu tiện b́nh thường. Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi ít hoặc mỏng, mạch tế nhược hoặc kết đại.
Trị pháp: Ích khí dưỡng âm, cố biểu phục mạch (益气养阴,固表复脉).
Xử phương: Sinh mạch tán hợp chích Cam thảo thang.
Tây dương sâm 6g, Mạch đông 12g, Ngũ vị 10g, Hoàng kỳ 20g, Quế chi 10g, Bạch thược 20g, A giao 15g, chích Cam thảo 10g, Sinh khương 6g, Ma nhân 10g, Sinh địa 12g, Đại táo 12g.
Phân lỏng nát khứ Ma nhân, Sinh địa (có thể gia Sinh khương, Sa nhân); Ngủ ít hay mơ gia Táo nhân 12g, Dạ giao đằng 20g; Lồng ngực phiền muộn, khó thở gia Qua lâu 15g, Giới bạch 10g, Bán hạ 10g để tuyên tí thông dương, miệng khô tệ hại về ban đêm gia Thạch hộc 15g, Thiên hoa phấn 10g để sinh tân dịch trị khát; Chán ăn khó nuốt gia Sa nhân 10g, Trần b́ 12g, Mộc hương 6g để khai vị.

② Loại h́nh khí hư, huyết ứ.
Chủ chứng: Trống ngực và khó thở, tức ngực và đau nhói, mệt mỏi và suy nhược, đánh trống ngực và khó thở trầm trọng hơn sau khi vận động, sắc mặt tối ám, ăn kém, đại tiểu tiện b́nh thường; Chất lưỡi ảm đạm hoặc có ứ ban Mạch tế sáp.
Trị pháp: Ích khí, hoạt huyết, hóa trọc (益气活血化浊).
Xử phương: Sinh mạch tán hợp Đan sâm ẩm gia vị.
Đảng sâm 15g, Ngũ vị tử 10g, Mạch đông 12g, Đan sâm 20g, Đàn hương 10g, Sa nhân 10g, Xuyên khung 12g, Đương quy vĩ 15g, Huyền hồ 12g, chích Cam thảo 10g, Hoàng kỳ sống 20g, Qua lâu 20g.
Nếu chất lưỡi tím tối, đau nhói khá nặng, gia Đào nhân 10g, Hồng hoa 6g, để hoạt huyết hóa ứ. Khí hư nhiều thay Đảng sâm bằng Hồng sâm 6g; Nếu có hiện tượng nhiệt, như miệng khô, rêu lưỡi vàng, th́ dùng Tây dương sâm 5g để tư âm ích khí. Ngủ kém gia Táo nhân 12g, Dạ giao đằng 20g để dưỡng tâm an thần.

Những loại thuốc thành dược có thể điều trị chứng rối loạn nhịp tim do viêm cơ tim gồm có:
Khi viêm cơ tim đến giai đoạn hồi phục và chỉ xảy ra đánh trống ngực, tức ngực, mệt mỏi và khó chịu, điện tâm đồ b́nh thường hoặc có ST-T thay đổi nhẹ, thiếu máu cơ tim nhẹ, rối loạn nhịp tim nhẹ, v.v., trọng tâm chính là chăm sóc điều dưỡng và chăm sóc sau. Lúc này, việc sử dụng thuốc thành dược của y học cổ truyền để điều trị là thuận tiện, tiết kiệm và đáng tin cậy.
1/ Thuốc Quy tỳ hoàn (Tế sinh phương)
Thành phần của bài thuốc: Bạch truật, Phục thần, Hoàng kỳ, Long nhăn nhục, Toan táo nhân, Nhân sâm, Mộc hương, Viễn chí, Đương quy, Cam thảo..
Công dụng: Bổ ích khí huyết, kiện tỳ dưỡng tâm.
Ứng dụng lâm sàng: Trong thời gian hồi phục của bệnh viêm cơ tim, người bệnh mệt mỏi về thể chất, ăn ít, hồi hộp, ngủ kém do suy nghĩ quá nhiều, căng thẳng đầu óc.
2/ Thuốc Bá tử dưỡng tâm hoàn (Thể nhân vị biên)
Thành phần của bài thuốc: Bá tử nhân, Cẩu kỷ tử, Mạch đông, Đương quy, Thạch xương bồ, Phục thần, Huyền sâm, Thục địa hoàng, Cam thảo.
Công dụng: Dưỡng tâm an thần, bổ thận tư âm.
Ứng dụng lâm sàng: Có thể dùng cho những bệnh nhân viêm cơ tim giai đoạn cuối, tim đập nhanh dai dẳng, mất ngủ, hay quên đổ mồ hôi đêm do lượng máu cung cấp không đủ.
3/ Thiên vương bổ tâm đan (Nhiếp sinh bí phẫu)
Thành phần của bài thuốc: Sinh địa, Nhân sâm, Đan sâm, Huyền sâm, Phục linh, Ngũ vị, Viễn chí, Cát cánh, Đương quy thân, Thiên đông, Mạch đông, Bá tử nhân, Toan táo nhân.
Công dụng: Tư âm dưỡng huyết, bổ tâm, an thần.
Ứng dụng lâm sàng: Dùng cho người bệnh viêm cơ tim, dễ bị âm hư trong thời kỳ hồi phục, bồn chồn và ít ngủ, hồi hộp và mệt mỏi, phân khô cứng; Chất lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác.
4/ Thuốc Bổ trung ích khí (Tỳ vị luận)
Thành phần của bài thuốc: Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Trần b́, cứu Thăng ma, Sài hồ, Đương quy.
Công dụng: Bổ trung ích khí, thăng dương cử hăm.
Ứng dụng lâm sàng: Có thể dùng cho bệnh nhân hồi hộp, mệt mỏi, thiếu sức, ăn ít trong thời kỳ viêm cơ tim hồi phục.
5/ Sinh mạch ẩm dạng nước uống (Nội ngoại thương biện cảm luận)
Thành phần: Nhân sâm, Mạch đông, Ngũ vị tử.
Công dụng: Ích khí sinh tân, liễm âm chỉ hăn..
Ứng dụng lâm sàng: Dùng cho bệnh nhân khí âm lưỡng hư viêm cơ tim trong thời kỳ hồi phục có các chứng trạng như hồi hộp, yếu sức, khó thở, tự hăn, miệng khô, mạch tế, ít rêu lưỡi. đang trong giai đoạn hồi phục của bệnh viêm cơ tim.
Lương y Trường Xuân
 
Reply with a quote


<< Trả Lời >>

Nội Quy | Góp Ý | © 2009 - 2024 yhoccotruyen.org