Trang Chính

  Dược Vị

  Toa Thuốc

  Diễn Đàn

  Đăng Nhập

  Đăng Ký

Diễn đàn >> Kiến Thức YHCT >> LƯ SƠN MẠCH CA

<< Đăng Chủ Đề Mới >>
LƯ SƠN MẠCH CA - posted by KHANG TƯỜNG (Hội Viên)
on September, 16 2013
lư sơn mạch phú

Xưa từng nói bệnh cơ mầu nhiệm,
Sách có câu mạch lư diệu huyền,
Học đạo y th́ phải tinh chuyên,
Thông mạch chứng mới phân Hàn- Nhiệt,
Dầu bá bệnh phân vân nhiều việc,
Đều gồm thâu Bát yếu rơ thông,
Phù bệnh ngoài, Trầm bệnh nơi trong,
Hư vô lực, Thực đi hữu lực.
Sác cấp bách tâm trung thiệt nhiệt,
Tŕ chậm thay quả thị chơn hàn.
Mạch Tiểu là phần Âm chứng hư hàn,
C̣n mạch Đại là toàn Dương thạnh.
Sáp đ́nh trệ tinh thương huyết lănh,
Hoạt lưu thông khí động đàm sanh.
Phù, Đại, Hoạt, Sác là Dương,
Th́ ta phải tư âm, giáng hỏa.
Trầm, Tiểu, Sáp, Tŕ- Âm bốn mạch,
Th́ phải nên ích hỏa, chế hàn.
Tam bộ thấy Phù Đại nhi sác,
Chứng trùng dương cuồng vọng kinh kỳ.
Sáu mạch đều Trầm Tiểu nhi Tŕ,
Trùng âm chứng chơn hàn quyết nghịch.
Dương bộ thiệt thấy h́nh Âm mạch,
Thời Âm thừa Dương vị đâu sai.
Dương bộ mà Âm mạch hựu lai,
Dương bạt Âm cung nguy cấp.
Trầm Tiểu mạch này là thương thấp,
Sác nóng hung, Tŕ nải thị hàn.
Phù Đại là ngoại cảm phong hàn,
Hoạt là đàm, Sáp là huyết bại.
Bộ Hữu Thốn- Khí khẩu mạch Đại,
Mạch này đây là chứng Nội thương.
Bộ Nhân nghinh tay tả mạch cường,
Mạch này quả thật là Ngoại cảm.
Hư phải Bổ,Thực th́ nên Tả,
Hàn phải Ôn,mà Nhiệt phải Lương.
Việc tử sanh trước phải cho tường,
Tua chẩn mạch rơ h́nh hư thiệt.
Bệnh Nhiệt thấy Trầm Tiểu ắt chết,
Chứng phát cuồng, thương độc không lành.
Bệnh Hàn đi Trầm Tiểu phục sanh,
Chứng tả lợi, lậu băng chẳng hại.
Đau lâu ngày kỵ đi Phù Đại,
Bệnh mới đau Trầm Tiểu hiểm nghèo.
Chưa sinh Hoạt Đại th́ mừng,
Chớ nên Đoản Sắc xem chừng khó khăn.
Đă sinh Trầm Tế an lành,
Nếu đi Phù Đại- Huyết Băng thảm sầu.
Kẻ tráng thạnh vô ưu Hoạt Đại,
Sáp Tiểu kia mạng lại không lâu.
Yếu già Trầm Tiểu chẳng âu,
Nếu như Phù Đại sớm chầu diêm la.
Xuân Hạ kia Dương khí thịnh hành,
Hoạt Đại kiết, Sáp Tiểu phi kiết.
Thu Đông là tháng thạnh Âm,
Trầm Tiểu lương. Bất lương Hoạt Đại.
Mạch với Mùa- thuận,tắc sanh,
Mạch phản Mùa- nghịch, tắc tử.
Tam quan tuy mạch tuyệt,
Chứng uất đàm ,bạo bệnh lại không sao.
Sáu bộ vẫn điều ḥa,
Mà thịt da teo róc là số tận.
Mạch Đại là Tà thịnh, bệnh tấn,
Tích tụ nghi- Hư tổn bất nghi.
Mạch Tiểu ắt Khí nhược- Dương suy,
Hư tổn lợi- Tích tụ bất lợi.
Sắc với Mạch tương thuận -tương sanh, kiết lợi.
Sắc với Mạch tương phản-tương khắc đại hung.
Phù Sác quá ngoài có trong không,
Dương độc, Âm vong ác chứng.
Trầm Tŕ tột Xích c̣n- Thốn tuyệt,
Âm cô- Dương thoát tử chi h́nh.
Xuân Mộc- Can cường,
Nghi Trường Hoạt, mạt nghi Đoản Sáp.
Thu Kim- Phế thạnh,
Hợp Tiểu mao- bất hợp Đại Hồng.
Hạ Hỏa ứng Tâm Phù Hồng kiết, Sáp Tiểu phi kiết.
Đông Thủy thuộc Thận,
Trầm Tiểu lương- Hoạt Đại bất lương.
Tứ quư mạch nên Hoăn Đại,nhưng sợ Hoạt Trường.
Ngũ hành ưa sanh vượng,thường lo khắc hại.
Khi Trường, khi Đoản đúng là Tà quái chi giao,
Lúc Sác,lúc Tŕ ấy là Quỷ mị chi Mạch.
Thượng bất chí Thốn là Dương tuyệt,
Hạ bất chí Xích là Âm vong.
Phù,Sác,Đại,Tiểu không thái quá- bất cập,
Miễn c̣n Vị khí không sao.
Đồng bậc Hoăn ḥa không quá Phù-quá Trầm,
Thật đúng là b́nh nhân chi mạch.
Ốc lậu- Hà du tử mạch,
Cũng một ḍng quá Sác, quá Tŕ.
Tước trác- Dơng tuyền tử h́nh,
Vốn thậm Hoạt,thậm Sác chi loại.
Phải tua biện hữu lực, hay vô lực,
Nên xét Tồn Thần hay Thất Thần.
Mạch với Bệnh tương đồng, chứng tuy nguy mà dễ trị.
Mạch với Bệnh tương phản, chứng tuy nhẹ nhưng nan y.
Nam, Bắc chính năm nào bất ứng,
th́ phải tua xem xét cho tường.
Người mập gầy hai nẻo Phù Trầm,
Cũng phải nên xét phân cho kỹ.
Bệnh Dương tuyệt, chết nơi Xuân- Hạ,
Chứng Âm vong, mất tại Thu-Đông.
Tuyệt Dương th́ chết ban ngày,
Vong Âm th́ xuống Tuyền đài ban đêm.
Mạch xem Thăng-Giáng chẳng đồng đều, Âm Dương cùng thoát.
Mạch Phù Đại lại đi quá Sác,
Chứng thuộc về Dương Độc là đây.
Nếu mạch đi Trầm Tiểu quá Tŕ,
Th́ bệnh thuộc Cô Âm đă rơ.
Năm tương ứng Mạch đi bất ứng,
Là chân nguyên hao tổn bên trong.
Mạch rối bời như mớ ḅng bong,
Đấy là chứng Huyết Hàn- Khí Trệ.
Phép trọng yếu do Tâm lănh hội,
Lại phân chia Chủ-Khách tỏ tường.
Quán thông then chốt Âm Dương,
Chánh-Tà suy xét đôi đường Thực-Hư.
Mạch Lục bộ ấn vào rất Sác,
Nhưng một ngưng vốn thiệt là Hàn.
Mạch đi Tŕ suốt Tam Quan,
Bổng động mạnh rơ ràng là Nhiệt.
Mạch Bát yếu Thánh Hiền ưu việt,
Khuyến hậu sanh phải thiệt tinh tường.
Thực Hư biện chứng-luận phương,
Rừng Y-Bể Thánh hoằng dương Tiền đồ.


 
Replied by justme (Hội Viên)
on 2013-09-16 22:48:28.0
Chào Thầy Khang Tường,

Cảm ơn Thầy đă đăng bài chia sẻ, Just thấy chuyên mục mạch học rải rác mỗi diễn đàn 1 ít và người t́m hiểu Đông Y rất mất công kiếm t́m được tư liệu quư. Nhân mục Lư San Mạch Phú này Just xin đăng 1 phiên bản khác để mọi người tiện tham khảo và làm diễn đàn phong phú hơn.

Hán Việt:

卢 山 脉 赋
Lư san mạch phú

总 万 病 八 要 脉 玄 基 赋
(tổng vạn bệnh bát yếu mạch huyền cơ phú.)
(tất cả bệnh tật luận qua bài phú bát yếu tổng mạch)


常 闻 病 基 恽 奥 脉 理 妙 玄 虽 万 像 分 云
Thường văn bệnh cơ uẩn áo mạch lư diệu huyền tuy vạn tượng phân vân.
Từng nghe : Mạch lư nhiệm mầu Bệnh cơ kỳ thú dù muôn h́nh biểu hiện rối ren,

须 八 要 以 庸 会
Tu bát yếu dĩ dung hội.
Đem bát yếu tóm thâu đầy đủ.

浮 沉 以 辨 其 表 里, 有 力 为 实 无 力 为 虚
Phù trầm dĩ biện kỳ biểu lư, hữu lực vi thực vô lực vi hư,
Xem mạch Phù trầm để phân biệt bệnh bên trong hay bên ngoài; có lực là thực, không lực là hư;

迟 数 以 定 其 热 寒, 阳 则 大 兮 而 阴 则 小
Tŕ sác dĩ định kỳ nhiệt hàn , dương tắc đại hề nhi âm tắc tiểu.
Đếm nhịp đi chậm nhanh để biết lạnh nóng; dương chứng th́ mạch to, âm chứng th́ mạch nhỏ.
.
濇 来 乩 滞 精 伤 血 少 之 源
Sắc lai kê trệ tinh thương huyết thiểu chi nguyên,
Mạch sắc dạng đi ngưng trệ, hẳn là cái gốc tinh thương huyết kém .

滑 至 流 通 气 动 痰 涎 之 本
Hoạt chí lưu thông khí động đàm diên chi bổn,
Mạch hoạt nhịp chạy trơn tru, th́ chủ yếu khí động sinh đàm .

浮 大 滑 数 阳 脉 须 抑 阳 以 扶 阴
Phù đại hoạt sác dương mạch, tu ức dương dĩ phù âm,
Loại mạch dương như : phù ,đại ,hoạt ,sác, phải nén dương để bảo trợ cho âm;

沉 小 迟 濇 阴 经 可 制 寒 而 益 火
Trầm tiểu tŕ sắc âm kinh, khả chế hàn nhi ích hỏa.
Loại mạch âm như : tiểu, trầm ,tŕ,,sắc, nên chế hàn để bổ ích cho hỏa.

三 部 见 浮 大 而 数 重 阳 病 则 望 狂
Tam bộ kiến phù đại, nhi sác trùng dương bệnh tắc vọng cuồng.
Mạch ba bộ đều thấy phù đại mà kiêm sác: là mạch trùng dương sinh ra chứng loạn cuồng;

六 脉 来 沉 小 而 迟 重 阴 症 当 决 逆
Lục mạch lai trầm tiểu nhi tŕ trùng âm chứng đương quyết nghịch
Mạch sáu bộ thấy đều trầm tiểu lại kiêm tŕ : chứng trùng âm làm chân tay lạnh giá.

阳 部 见 阴 脉 至 阴 承 阳 位 须 知
Dương bộ kiến âm mạch chí âm thừa dương vị tu tri.
Ngôi dương thấy âm mạch biểu lộ, đó là âm lấn tới dương phải biết;

阴 部 见 阳 脉 来 阳 夺 阴 经 可 识
Âm bộ kiến dương mạch lai dương đoạt âm kinh khả thức.
Ngôi âm mà dương mạch hiện h́nh, chính là dương tràn vào chỗ âm phải tường.

沉 小 伤 湿 数 是 热 而 迟 是 寒
Trầm tiểu thương thấp, sác thị nhiệt nhi tŕ thị hàn,
Mạch trầm tiểu : tổn thương v́ thấp; sác chủ chứng nhiệt, tŕ chủ chứng hàn

浮 大 感 风 滑 乃 痰 而 啬 乃 血
phù đại cảm phong, hoạt nải đàm ,nhi sắc năi huyết.
Mạch phù đại : chủ cảm mạo v́ phong ; hoạt : chủ đàm, sắc : chủ huyết
右 手 气 口 脉 大 内 伤 真 是 根 源
Hữu thủ khí khẩu mạch đại, nội thương chân thị căn nguyên.
Bên tay phải nơi khí khẩu mạch đi to : là căn nguyên của chứng nội thương .

左 手 人 迎 脉 强 外 感 本 其 身 戚
Tả thủ nhân nghênh mạch cường ngoại cảm bổn kỳ thân thích.
Bên tay trái tại nhân nghênh mạch đi mạnh mẻ : là do bị chứng ngoại cảm

虚 则 补 而 实 则 泻 寒 可 温 而 热 可 凉
Hư tắc bổ nhi thực tắc tả, hàn khả ôn nhi nhiệt khả lương.
Hư th́ phải bổ.Thực th́ phải tả, Hàn th́ phải ôn, nhiệt phải dùng lương ;

欲 知 病 体 死 生 当 看 脉 形 虚 实
Dục tri bệnh thể tử sinh, đương khán mạch h́nh hư thực.
Muốn biết rơ sống chết ra sao, Phải biết mạch thực, mạch hư cho rỏ ;

热 病 见 沉 小 则 死 发 狂 疮 毒 亦 非 宜
Nhiệt bệnh kiến trầm tiểu tắc tử, phát cuồng sang độc diệc phi nghi.
Nếu bệnh nhiệt mà mạch tŕ kiêm tiểu, th́ khó bảo toàn tính mạng
cả chứng phát cuồng, ung độc cũng đáng lo ngại.

寒 证 来 迟 濇 则 生 泻 痢 漏 崩 無 不 愈
Hàn chứng lai tŕ sắc tắc sinh ,tả lỵ lậu băng vô bất dủ.
Các chứng hàn mà mạch tŕ kiêm sắc : bệnh chẳng hề lo; các chứng bị tả, lỵ ,lậu, băng đều không sao.

久 病 浮 大 最 忌, 新 病 沉 小 难 良
Cửu bệnh phù đại tối kỵ, tân bệnh trầm tiểu nan lương
Bệnh đă lâu, thấy mạch phù đại đáng ngại ; Bệnh mới mắc, thấy mạch tiểu trầm nên sợ.

未 产 之 前 宜 滑 大 不 宜 啬 小
Vị sản chi tiền nghi hoạt đại, bất nghi sắc tiểu,
Trước khi sinh mạch hoạt đại th́ tốt; c̣n đi sắc tiểu không thuận.

已 产 之 后 合 沉 小 最 忌 大 浮
Dĩ sản chi hậu hiệp trầm tiểu tối kỵ đại phù.
Sau khi sinh mạch thuận là tiểu trầm ; nếu thấy phù dại là mạch kỵ

壮年 滑 大 为 良, 若 啬 小 命 终 不 久
Tráng niên hoạt đại vi lương nhược sắc tiểu mạng chung bất cửu.
Người trai tráng mạch hoạt đại th́ tốt nếu sắc tiểu mạng sống chẳng lâu dài,

老 弱 沉 小 为 吉, 若 浮 大 数 理 难 长
Lăo nhược Trầm tiều vi kiết nhược phù đại số lư nan trường.
Khi tuổi già mạch thuận là tiểu trầm, nếu phù đại tuổi thọ khó dài.

春 夏 阳 强 浮 洪 吉 沉 小 非 吉
Xuân hạ dương cường phù hồng kiết trầm tiểu phi kiết,
Tiết xuân hạ khí dương đương thịnh, mạch nên hồng đại, nếu đi tiểu trầm th́ không tốt

秋 冬阴 盛 沉 小 昌 滑 大 不 昌
Thu đông âm thịnh trầm tiểu xương hoạt đại bất xương.
Mùa thu đông khí âm đang sinh, mạch phải tiểu trầm thấy hoạt đại là mạch không thuận

脉与 时 顺 者 生 脉 与 时 逆 者 死
Mạch dữ thời thuận giả sinh. mạch dữ thời nghịch giả tử.
Mạch với thời thuận nhau th́ sống , mạch với thời nghịch nhau th́ chết

三关 虽 绝 不 见 脉 郁 痰 暴 病易 救 生
Tam quan tuy tuyệt bất kiến mạch, uất đàm bạo bệnh dị cứu sinh,
mạch ba bộ tuy không thấy đập nữa, Nếu là chứng ngất bởi do đàm uất,có thể cứu sống được

六 脉 具 调 形 肉 脱 死 无 愁 绝 必 不 生
Lục mạch câu điều h́nh nhục thoát, tử vô sầu tuyệt tất bất sinh.
Mạch sáu bộ dù có điều hoà, Người gầy da thịt róc khô, cũng khó ḷng cứu chữa

脉 大 则 邪 盛 病 进 积 聚 宜 虚 损 不 宜
Mạch đại tắc tà thịnh bệnh tấn, tích tụ nghi hư tổn bất nghi,
Mạch to là tà khí thịnh bệnh đang tiến triển: nhưng chứng tích tụ chẳng ngại, hư lao th́ lo ngại.

脉 小 则 气 弱 阳 衰虚 损 利 积 聚 不 利
Mạch tiểu tắc khí nhược dương suy, hư tổn lợi tích tụ bất lợi.
Mạch đập nhỏ là dương khí suy kém ; chứng hư tổn mạch đó th́ lành, chứng tích tụ th́ dữ.

脉 病 相 顺 相生则 吉
Mạch bệnh tương thuận tương sinh tắc kiết,
Bệnh với mạch thuận chiều, là điềm tốt

脉 病 相 反 相 克 则 凶
Mạch bệnh tương phản tương khắc tắc hung.
Bệnh với mạch trái nhau,đó là điềm xấu.

浮 数甚 外 有 内 无 阳 独 阴 亡恶 候
Phù sác thậm ngoại hữu nội vô dương độc âm vong ác hậu,
Ngoài mạch phù sác mà trong rỗng tuếch : là chứng âm ĺa dương thoát phải cẩn thận

沉 迟 极 尺 存 寸 绝, 阴 孤 阳 脱 死 形
Trầm tŕ cực, xích tồn thốn tuyệt, âm cô dương thoát tử h́nh.
Mạch trầm tŕ, bộ xích c̣n mà thốn tuyệt là chứng âm c̣n dương thoát phải đề pḥng ,

春 木 肝 强 宜 长 滑 不 宜 短 啬
Xuân mộc can cường nghi trường hoạt bất nghi đoăn sắc,
Tiết xuân, mộc khí can đương thịnh, mạch hồng hoạt th́ tốt, mạch đoản sắc không hay.

秋 金 肺 盛 合 小 毛 不 合 大 洪
Thu kim phế thịnh, hợp tiểu mao bất hợp đại hồng,
Mùa thu kim, khí phế hợp thời, mạch nhỏ nhẹ th́ hay , mạch đại hồng chẳng khá.

夏 火 应 心 浮 洪 吉 沉 小 非吉
Hạ hỏa ứng tâm, phù hồng kiết trầm tiểu phi kiết,
Mùa hạ thuộc hỏa ứng vào tâm, mạch không thuận nhỏ ch́m mà thích hợp đại phù.

冬 水 属 肾 沉 小 昌 缓 大不 昌
Đông thủy thuộc Thận, trầm tiểu xương hoăn đại bất xương,
Đông thuộc hành thuỷ hợp với thận,thuận với mạch trầm tiểu, không thuận mạch hoăn đại

四 季 宜 缓 大 而 怕 滑 长
Tứ quí nghi hoăn đại nhi phách hoạt trường,
Mạch hoăn đại hợp vào mùa tứ quư, chỉ lo sợ mạch hoạt trường là mạch trái mùa;

五 行 喜 生 旺 而 忧 克 害
Ngũ hành hỉ sinh vượng nhi ưu khắc hại.
Mạch tương sinh ứng với ngũ hành thị tốt , chỉ lo thừa khắc là điều chẳng tốt
乍 长乍 短 真 为 邪 庇 脉 形
Sạ trường sạ đoăn chân vi tà tư mạch h́nh.
Mạch lúc ngắn lúc dài là dạng mạch tà quái

惚 数 惚 迟 总 是 鬼 媚 之 脉
Hốt sác hốt tŕ tổng thị quỷ mị chi mạch.
Mạch khi nhanh khi chậm là mạch qủy mị;

上 不 至 寸 为 阳 绝 下 不 至尺 为 阴 亡
Thượng bất chí thốn vi dương tuyệt, hạ bất chí xích vi âm vong,
Mạch đi trên không tới bộ thốn là khí dương đă thoát, dưới không đến bộ xích là phần âm đă mất.

屋 漏 虾 游 死 脉若 过 迟 过 数 之 宗
Ốc lậu, hà du, tử mạch, nhược quá tŕ quá sác chi tông.
Mạch hà du, ốc lậu, hay mạch đi quá tŕ quá sác : đều thuộc chứng nguy.

雀 啄 涌 泉 恶 厚 本甚滑 甚浮之类
Tước trác, dũng tuyền, ác hậu, bổn thậm hoạt thậm phù chi loại
Mạch tước trác, dũng tuyền hoặc mạch đi quá hoạt quá phù : cũng thuộc loại bệnh khó.

无 太 过 无 不 及 不 迟 不数 是 存 胃 气 之名
Vô thái quá, vô bất cập, bất tŕ, bất sác, thị tồn vị khí chi danh,
Mạch đi không thái quá không bất cập. không nhanh không chậm th́ gọi là vị khí c̣n tốt

没 同 等 没 缓 和 莫 浮 莫 沉 真 得 平 人 之 脉
Một đồng đẳng một hoăn ḥa mạc phù mạc trầm, chân đắc b́nh nhân chi mạch.
Mach tượng đi chậm rải lại đều đều, không nổi, không ch́m là mạch người không bệnh.

须 辨 有 力 无 力,但 看 存 神 失 神
Tu biện hữu lực vô lực, đản khán tồn thần thất thần,
Phải xem có lực hay không ? Nên xét c̣n thần hay mất .

脉 病 相 同 证 虽 危 而 易 治
Mạch bệnh tương đồng chứng tuy nguy nhi dị trị,
Mạch và bệnh hợp t́nh, bệnh dù nguy nhưng chữa dễ dàng.

脉 病 相 反 证 虽 易 而 难 医
Mạch bệnh tương phản chứng tuy dị nhi nan y,
Bệnh với mạch không thuận nhau, chứng chẳng thấy ǵ nhưng khó bề chữa khỏi.

南 北 不 应 之 年 存 乎 可 察
Nam bắc bất ứng chi niên tồn hồ khả sát
Xem theo vận khí Nam chánh hay Bắc chánh năm nào không ứng, nên xét cho tường.

肥 瘦 浮 沉 之脉 参 以 同 看
Khả liệu ph́ sấu, phù trầm chi mạch tham dĩ đồng khán
Người béo hay gầy mạch hợp phù hay trầm, phải cùng xem cho rỏ ràng.

八 要 明 焉 万 病 障 矣
Bát yếu minh yên vạn bệnh chướng hỉ
Bát yếu được rành rẻ ,Muôn bệnh sẽ rỏ ràng.

阳 绝 死 於 春 夏, 阴 绝 没 在 秋 冬
Dương tuyệt tử ư xuân hạ, âm tuyệt một tại thu đông.
Chứng dương tuyệt chết ở mùa xuân hạ. Chứng âm tuyệt chết vào thời thu đông,
阳 绝 昼 死 阴 绝 夜 亡
Dương tuyệt trú tử, âm tuyệt dạ vong.
Dương tuyệt th́ ban ngày dể chết, Âm tuyệt th́ ban đêm dể chết.

脉 虽 息 至 调 和 不 立 根 原 真 乃 折
mạch tuy tức chí điều ḥa bất lập căn nguyên chân năi chiết
Mạch tuy đi theo nhịp thở điều ḥa nhưng không có gốc th́ cũng phải gảy .

诊 见 去 来 促 急 坚 强 本 柱 亦无 忧
chẩn kiến khứ lai xúc cấp kiên cường bổn trụ diệc vô ưu
Mạch đi lao xao gấp rút nhưng có gốc vững vàng th́ khỏi phải lo âu.

六 脉 分 明 双 状 两日 还 亡
lục mạch phân minh song trạng lưỡng nhật hoàn vong
Sáu mạch hai trạng thái âm dương cách biệt rỏ ràng, hai ngày là vong mạng.

尺 部 升 降 不 同 阴 阳 相 脱
xích bộ thăng giáng bất đồng âm dương tương thoát
Bộ xích mạch lên xuống chẳng đều, âm dương ĺa thoát là chứng chết

浮 大 过 数 独 阳 之 班
phù đại quá sác độc dương chi ban
Đă phù dại lại c̣n quá sác là chứng độc dương phải đề pḥng;

沉 小 过 迟 孤 阴 变
trầm tiểu quá tŕ cô âm chi biến
Đă tiểu trầm mà lại quá tŕ là chứng cô âm liệu mà lo giữ.

应 而不 应 是 委 真 原
ứng nhi bất ứng thị ủy chân nguyên
Năm đáp ứng, mạch không tương ứng : đều là chứng nguyên khí hư tổn

止 下 缠 绵 逼 寒 气 滞
chỉ hạ triền miên bức hàn khí trệ
Dưới ngón tay nhịp chẳng rành, mạch chạy lăng nhăn là huyết bị hàn nên dương khí ngưng tụ,

要 法 由 来 从 本 主 客 通 知
yếu pháp du lai tùng bổn chủ khách thông tri
Phương pháp xem mạch do ḷng ḿnh lĩnh hội. mà phân định chủ khí khách khí

妙 然 得 此 基 关 正 邪 判 矣
diệu nhiên đắc thử cơ quan chánh tà phán hỉ
Phải biết soi xét phân tích tổng hợp t́m mấu chốt để phân định chánh khí tà khí.

六 部 按 至 数 止 凝 乃 是 真 寒
lục bộ án chí sác chỉ ngưng năi thị chân hàn
Sáu bộ mạch thảy đều đi rất sác( nhiệt chứng ), nhưng có nhịp ngừng th́ lại là chứng hàn trệ

三 关 若 诊 虽 迟 一 作 动 中 真 逼 热
tam quan nhược chẩn tuy tŕ nhất tác động trung chân bức nhiệt
Ba bộ tuy thấy mạch tŕ (hàn chứng )nhưng có một nhịp động th́ lại là chứng bên trong quá nhiệt.

圣 贤 八 要 总 在 一 端
thánh hiền bát yếu tổng tại nhất đoan
Thánh hiền đă gom tất cả mạch vào bát yếu chung một mối
虚 实 通 之 死 生 观 矣
hư thực thông chi tử sinh chi quán hỉ.
Chuyện hư thực, sinh tử, luận giải quyết đoán không nghi ngờ chi nữa.

Người sưu tầm nguyên bản bằng chữ Hán :
Nguyễn Trung Ḥa
Người dịch : LY. Nguyễn Văn Bách

 
Reply with a quote
Replied by justme (Hội Viên)
on 2013-09-16 22:49:34.0
Bản dịch tiếng Việt:

Lư sơn mạch phú - Nguyễn Đ́nh Chiểu

Lư sơn mạch phú
của Nguyễn Đ́nh Chiểu
Bệnh cơ bát yếu tổng mạch)

Từng nghe :
Mạch lư nhiệm màu
Bệnh cơ kỳ thú
Dù muôn h́nh biểu hiện rối ren,
Đem bát yếu tóm thâu đầy đủ.
Xem mạch tượng Phù trầm để phân biệt biểu lư; có lực là thực, không lực là hư;
Đếm nhịp đi tŕ sác để biết nhiệt hàn; dương chứng th́ to, âm chứng th́ nhỏ.
Mạch sắc dáng đi ngưng trệ, hẳn tinh thương huyết kém chi đây
Mạch hoạt nhịp chạy trơn tru, chắc khí động đàm sinh chính đó.
Loại mạch dương : phù đại hoạt sác, phải nén dương để bảo trợ cho âm;
Loại mạch âm : sác tiểu trầm tŕ, nên chế hàn để bổ ích cho hỏa.
Mạch ba bộ thấy đều phù đại mà kiêm sác : chứng trùng dương chí loạn cuồng;
Mạch sáu bộ thấy đều trầm tiể lại kiêm tŕ : chứng trùng âm chân tay lạnh giá.
Ngôi dương thấy âm mạch biểu lộ, đó là âm lấn tới dương cơ;
Ngôi âm mà dương mạch hiện h́nh, chính là dương tràn vào âm sở.
Mạch trầm tiểu : tổn thương v́ thấp; tŕ : hàn, sác : nhiệt, phải phân chia.
Mạch phù đại : cảm mạo v́ phong ; sắc : huyết, hoạt :đàm, nên hiểu rơ.
Nơi Khí khẩu mạch phô trường đại : nội thương khí huyết hư hao.
Chôn Nhân nghênh mạch mạnh khác thường : ngoài là b́ phu cảm thụ.
Hàn th́ ôn, nhiệt phải dùng lương ;
Thực th́ tả, hư th́ phải bổ.
Muốn tường mệnh sống thác ra sao,
Phải biết mạch thực hư cho tỏ ;
Phàm bệnh nhiệt mà mạch tŕ kiêm tiểu : mệnh khôn thoát khỏi ; đến chứng phát cuồng, ung độc cũng đáng hăi hùng.
Các chứng hàn mà mạch trầm kiêm sắc : bệnh chẳng hề lo; dù tả lỵ lậu băng thảy đều thanh thả.
Bệnh đă lâu, phù đại đáng ngờ ;
Bệnh mới mắc, liểu trầm nên sợ.
Trước khi đẻ mạch nên hoạt đại ; nhược bằng sắc tiểu chẳng hay.
Sau khi sinh mạch cốt tiểu trầm ; nếu thấy hồng dại là dở.
Người trai tráng phải cần hoạt đại, nếu sắc liểu mệnh chẳng lâu dài,
Cụ già nua đáng lẽ tiểu trầm, nếu phù đại thọ gần hết số.
Tiết xuân hạ khí dương đương thịnh, mạch nên hồng đại, mà liểu trầm chính thực suy đồi,
Mùa thu đông khí âm dương sinh, mạch phải liểu trầm thấy hoạt dại mắc vào bệnh khổ
Chứng sống th́ thời với mạch thuận xuôi,
Chứng chết th́ mạch với thời trái trở.
Chứng ngất bởi do đàm uất, mạch ba bộ tuy rằng ngừng tuyệt, có thể hồi sinh,
Người gầy da thịt róc khô, mạch sáu bộ dẫu có điều hoà, không ḥng cứu gỡ.
Mạch hiện lo là tà thịnh bệnh tiến : cghứng tích tụ mạch này chẳng ngại, chứng hư lao th́ mạch ấy chẳng lành.
Mạch đập nhỏ là khí yếu dương suy ; chứng hư tổn mạch đó th́ lành, chứng tích tụ mạch này th́ dữ.
Sắc với mạch thuận chiều, chính thực điềm vui,
Sắc với mạch trái đường,đó là chuyện gở.
Ngoài phù sác mà trong rỗng tuếch : âm ĺa dương thoát dè chừng.
Thốn trầm tŕ mà xích tuyệt không : âm thoát dương c̣ biểu lộ,
Tiết xuân mộc khí can dương thịnh, hồng hoạt th́ tốt, đỏa sắc không hay.
Buổi thu kim khí phế hợp thời, nhỏ nhẹ th́ ưa, đại hồng chẳng khá.
Hạ : thuộc hỏa ứng vào tâm mạch, ghét nhỏ ch́m mà thích đại phù.
Đông : hành thuỷ hợp với thận kinh, ghét hoạt đại mà ưa ch́m nhỏ.
Mạch hoăn đại hợp vào tứ quư, hoạt trường là mạch trái mùa;
Mạch vượng sinh ứng với ngũ hành, thừa khắc là điều chẳng thú.
Khi tŕ khi sác là mạch quỷ yêu;
Lúc đoản lúc trường chính ḍng ma cơ.
Cơ nguy dương thoát ; mạch thốn chẳng c̣n ;
Điềm dữ âm vong : mạch xích không có.
Quá tŕ hay quá sác : mạch hà du, ốc lậu đều thuộc chứng nguy
Quá hoạt hoặc quá nhanh : mạch tước trác, dũng tuyền cũng loài bệnhkhó.
Mạch tượng dù tŕ sác hay đại tiểu, nhưng không thái quá hay bất cập là vị khí hăy c̣n ;
Mặch tượng mà êm ái lại điều ḥa, nếu không quá phù hay quá trầm là mạch b́nh chóng đỡ.
Phải xem có lực hay không ?
Nên xét c̣n thần chăng chớ !
Mạch và bệnh hợp t́nh, bệnh dù nguy nhưng chữa dễ dàng
Chứng với mạch trái chiều, chứng dầu dễ khó bề xoayxở.
Hướng Nam Bắc năm n2o không ứng, nên xét cho tường;
Người béo gầy mạch hợp phù trầm, phải phân cho tỏ.
Bát yếu đă rành,
Muôn bệnh đều rơ.
Chứng âm tuyệt chết ở buổi thu đông,
Chứng dương tuyệt chết ở mùa xuân hạ.
Dương tuyệt th́ ban ngày tiêu vong,
Âm tuyệt th́ ban đêm tàn tạ.
Thăng giáng chẳng đều, âm dương ĺa thoát : chỉ trong một tháng qua đời,
Đập ngừng có mức, nhịp độ rơ ràng : sẽ hưởng trăm năm tuổi thọ.
Đă phù dại lại c̣n quá sác : loại độc dương rất phải đề pḥng;
Đă tiểu trầm mà lại quá trí : chứng có âm liệu mà lo giữ.
Năm đáng ứng, mạch không tương ứng : tạng bị suy mà dương khí hư hao.
Nhịp chẳng rành, mạch chạy ĺ ŕ : huyết bị hàn nên dương khí ngưng tụ,
Phép mấu chốt do ḷng lĩnh hội, hợp thâu chủ khách đôi đường,
̉c quán thông lưu ư xét suy, rành mạch chính tà mọi chỗ.
Sáu bộ mạch thảy đều rất sác, có nhịp ngừng là hàn khí triền miên.
Ba bộ mạch tuy thấy rất tŕ, có nhịp động là nhiệt là rực rỡ
Danh tuy chia gọi tám đường,
thực cũng quy về một ngả.
Lẽ thực hư thông hiểu đă tinh vi,
Cơ sinh tử quyết đoán không nghị ngờ.

Người sưu tầm nguyên bản bằng chữ Hán :
Nguyễn Trung Ḥa
Người dịch : LY. Nguyễn Văn Bách

 
Reply with a quote
Replied by justme (Hội Viên)
on 2013-09-16 22:54:23.0
XUẤT XỨ LƯ SAN MẠCH:

Năm 1890, Bùi Thúc Trinh (Bùi Văn Trung - Hải Hậu - Nam Định) có chép tay, sao lại cuốn "VỆ SINH CHỈ YẾU" của Trần Văn Mô (Phú Xuyên- Hà Tây), lấy tên là "VỆ SINH YẾU CHỈ", trong đó có bộ "LƯ SAN MẠCH". Nhưng cuốn "Vệ Sinh chỉ yếu" này Trần văn Mô sao lại năm 1805 từ cuốn "VỆ SINH MẠCH QUYẾT" của Hồng Cẩm Cư sĩ, Họ Bùi ở Sơn Nam sưu tầm năm 1782. Tương truyền sách này là của nhà sư Minh Không viết năm 1136 (Nguyễn Chí Thành, ở Gia Viễn, làm Quốc sư thời Lư Thần Tông).

Năm 1952, con trai của Lương y Đinh Sĩ Trân là Đinh Thành Song công bố "LƯ SAN MẠCH" bằng chữ Hán Nôm, gồm: Lư San mạch ca (Có 28 mạch, nhưng mạch TUYỆT là không có mạch, nên chỉ c̣n 27 mạch) và Lư San Mạch phú, (thiếu phần ¿Bát Yếu biện ngoa), được Lương y Đỗ Phong Thuần dịch ra quốc âm, đăng trong "Tạp chí Đông Y" tại Sài G̣n năm 1955 - 1956 do L.y Đỗ Phong Thuần và L.y Phạm Văn Điều chủ biên. Sau đó, Ông Đỗ Phong Thuần đăng trong sách "Y Học Thực Hành" năm 1956 và Phạm Văn Điều đăng trong "Đông Y Dược tạp chí" năm 1957. Ngoài ra, c̣n có bản dịch ra thơ Lục bát củà Lương y Nguyễn Văn Bách và thơ thất ngôn của Nguyễn Phước Thiện (Cần Đước) năm 1970. Bà Hồng Nguyên đăng lại trong "Y Học Cổ Truyền thực hành" xuất bản năm 1987 và Lương y Trần Khiết đăng trong "Mạch Học Lược Giản", xuất bản 1998.v.v Nhờ các bản dịch trên được phổ biến rộng răi, mà nhiều đời lương y ở Miền Nam Việt Nam rất tâm đắc với bộ mạch độc đáo này.

Nhưng mỗi người dịch theo một cách, có một số sai sót và một số chỗ khó hiểu được dịch lướt qua; Đến nay, chưa có chú giải và hiệu đính, khiến những người muốn t́m hiểu về bộ "Lư San Mạch phú" cũng gặp nhiều khó khăn.

Rất may, gia đ́nh tôi c̣n lưu giữ được bộ "Quế Sơn Quốc Âm Y Học Yếu chỉ" 7 quyển, của Đốc học Hoa Xuyên Hầu Nguyễn Gia Cát biên chép vào cuối Thế kỷ 18, Đây là bộ sách "Dạy Y học ở Đàng Trong" có đủ cả Lư, Pháp, Phương, Dược được viết bằng Hán Nôm, theo thể thơ phú. Trong đó có ghi đầy đủ bộ "Lư San Mạch", Nhân thân phú, Y thuật phú,...

Theo bộ sách này th́ Lư San mạch có 3 phần :

- Lư San Mạch ca. Đă được lương Đỗ phong Thuần dịch ra quốc âm.

- Bát Mạch Tổng yếu (Lư San Mạch Phú, cũng được Lương y Đỗ Phong Thuần dịch).

- Bát yếu biện ngoa (Bàn rộng về 8 mạch thiết yếu; chưa thấy công bố)..

Theo Thuật Phong Thủy th́ "Lư San Mạch" là nơi hội tụ những tinh hoa của khí thiêng sông núi; nơi có huyệt Mạch tốt nhất. Ở đây có ư nói: "Bộ mạch này là nơi hội tụ những tinh hoa của phép xem mạch".
Chúng tôi đă tra cứu trong Bộ "Tứ khố toàn thư và Y Tông Kim Giám" là hai bộ Đại Tự Điển tổng kết Y học của Trung Quốc từ xưa đến cuối đời nhà Thanh, không thấy nhắc đến bộ mạch này.

Lúc đầu, tôi nghỉ nó được nhà sư Minh Không trước tác khoảng năm 1136, nhà Lư.

Dịp may, khi đọc cuốn "SINH HOẠT CỔ ĐẠI CỦA ĐẠO SĨ TRUNG QUỐC", do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương vụ ấn quán Bắc Kinh xuất bản 1997 có ghi: "LƯ SAN MẠCH" là của Thôi Gia Nghiêm, tự Thuận Hy Gian, đời Hậu Tống, người Cam Túc, Huyện Thiên Thủy. Ông Tu theo Đạo Gia lấy hiệu là "Tử Hư Chân Nhân", Lúc cuối đời Ông ẩn cư ở núi Lô Sơn (Quảng Châu) để tu hành và đắc đạo "thành Tiên" (khoảng năm 1174-1189). Cả đời Thôi Gia Nghiêm chỉ trước tác có 1 quyển duy nhất là "LƯ SƠN MẠCH QUYẾT".

Có điều chúng tôi vẫn chưa thống nhất, là từ đó đến nay hơn 800 năm, không có Danh y của Trung Quốc nào chép lại hay nói đến trong tác phẩm của ḿnh, mà chỉ lưu truyền trong Đạo giáo, th́ làm ǵ nó c̣n có thể tồn tại được. Hơn nữa Nhà sư Minh Không tức Nguyễn Chí Thành, quốc sư nhà Lư, cũng sống cùng thời với Thôi Gia Nghiêm, cùng tu đạo Tiên, rất nỗi tiếng, đă từng chữa bớt bệnh điên cuồng và chứng mọc lông dài khắp ḿnh cho Vua Lư Thần Tông năm 1136, bằng phù phép và cho tắm nước bồ ḥn.

Nên việc xác định ai là tác gỉa bộ mạch này là điều chúng ta nên tiếp tục nghiên cứu.

LƯ SƠN MẠCH là bộ mạch tuy giản dị, nhưng lại rất sâu sắc. Ai đọc cũng thấy hay và đều áp dụng được. Nhưng hiểu được trọn vẹn th́ rất khó khăn. Có nhiều ẨN ẢO CỦA LỐI VĂN XƯA.. nhất là phần "Lư San Mạch Phú".

Sau mấy mươi năm, vừa học vừa làm, măi đến khi tôi đọc các tác phẩm nói về Mạch, như: Nạn Kinh, Nội Kinh, Hải Thượng, Tuệ Tĩnh, Hoàng Danh Sướng, Hoàng Nguyên Cát, Cảnh Nhạc, Tŕnh Chung Linh, Hoạt Bá Nhân, Lư Đông Viên, Thang Bản Cầu Chân, đem soi rọi lại, mới lần lần hiểu được phần nào ư tứ của bậc "Tiên Y".

Lư San Mạch phú, tuy rất ngắn, nhưng nó đề cập đến mọi khía cạnh của nền y học, như: Phân biệt Mạch "Ngoại cảm - Nội thương, Hư - Thực, Âm Dương giao biến, Tử Sinh; Qủy ma. Mạch thuận hay nghịch" đối với người "già trẻ, trai gái, thai nghén, đau lâu hay mới bệnh, thời tiết, khí hậu" Một số vấn đề quan trọng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, lần sau được nâng lên một bước, như : Vị khí, thời khí, hư thực.

Chúng tôi xin dịch phần "Lư San Mạch phú" theo bộ "Quế Sơn Quốc Âm Y Học Yếu Chỉ" và chú giải theo phương pháp "lấy Kinh chú Kinh".

Phần "Bát yếu biện ngoa" (Bàn rộng về 8 mạch thiết yếu), Chúng tôi sẽ đề cập sau.


I - Dịch nôm:

LƯ SƠN MẠCH PHÚ
(Bát mạch tổng yếu)

1.* Thưởng văn: Bệnh cơ uẩn ảo, mạch lư diệu huyền.

2.Tuy Vạn tượng chi phân vân, tu bát yếu chi dung hội.

3.Phù Trầm dĩ biện kỳ biểu lư. Hữu lực vi thực, vô lực vi hư.
Tŕ Sác dĩ định kỳ Nhiệt Hàn. Dương tắc Đại hề nhi Âm tắc Tiểu.

4.Sắc lại kê trệ, Tinh thương Huyết thiểu chi nguyên.
Hoạt chí lưu thông, Khí động Đàm diên chi bổn.

5.Phù, Đại, Hoạt, Sác Dương mạch, tu ức Dương dĩ pḥ Âm.
Trầm, Tiểu, Tŕ, Sắc Âm kinh, khả chế Hàn nhi ích Hỏa.

6.Tam bộ kiến Phù Đại nhi sác,Trùng Dương bệnh tắc vọng cuồng.
Lục mạch lai Trầm Tiểu nhi Tŕ,Trùng Âm chúng đương Quyết nghịch.

7.Dương bộ kiến Âm mạch chí, Âm thứa Dương vị tu tri.
Âm bộ kiến Dương mạch lai, Dương đoạt Âm cung khả thí.

8.Trầm Tiểu Thương Thấp, Sác thị Nhiệt nhi Tŕ thị Hàn.
Phù Đại cảm phong, Hoạt năi Đàm nhi Sắc năi Huyết.

9.Hữu Thủ Khí khẩu mạch Đại, nội thương chân thị căn nguyên.
Tả thủ Nhân nghinh mạch cường, ngoại cảm bổn kỳ thân thích.

10.Hư tắc Bổ nhi Thực tắc Tả. Hàn khả Ôn nhi Nhiệt khả Lương.

11.Dục tri bệnh thể tử sanh; Tu khán mạch h́nh Hư Thực.

12.Nhiệt bệnh kiến Tŕ Tiểu tắc tử, phát cuồng sang độc dịệc triệu nghi.
Hàn chứng lai Trầm Sắc tắc sanh, Tả, lỵ, lậu, băng vô bất dũ.

13.Cửu bệnh Phù Đại tối kỵ, Tân bệnh Trầm Tiểu vô lương.(nan).

14.Vị sản chi tiền nghi Hoạt Đại, bất nghi Sắc Tiểu.
Dĩ sản chi hậu, hợp Tiểu Trầm, bất hợp Đại Phù.

15. Tráng nhân Hoạt Đại vi lương, nhược Sắc Tiểu mạng trung bất cửu.
Lăo nhược Trầm Tiểu tắc kiết, nhược Đại phù số lư nan trường.

16.Xuân Hạ Dương cường Hoạt Đại kiết, nhi Trầm Tiểu bất kiết.
Thu Đông Âm thịnh, Trầm Tiểu xương, nhi Hoạt Đại bất xương.

17.Mạch dữ thời thuận tắc sanh, mạch dữ thời nghịch tắc tử.

18.Tam quan tuy tuyệt, uất đàm bạo bệnh diệc năng tô.
Lục mạch tuy đều, h́nh khô nhục thoát tử sầu tuyệt.

19.Mạch Đại tắc tà thịnh bệnh tiến. Tích tụ nghi, hư tổn bất nghi.
Mạch Tiểu tắc Khí nhược Dương suy. Hư tổn lợi nhi tích tụ bất lợi.

20.Mạch bệnh tương thuận, tương sanh tắc kiết; Mạch bệnh tương phản, tương khắc tắc hung.

21.Trầm Tŕ cực, xích tồn thốn tuyệt, Âm cô Dương thoát tử h́nh.
Phù Sác thậm ngoại hữu nội vô. Dương độc Âm vong ác hậu.

22.Xuân Mộc can cường, nghi Hoạt Đại, bất nghi Sắc Tiểu. Thu Kim phế thịnh, hợp Tiểu mao bất hợp Đại Hồng.

23.Hạ Hoả ứng Tâm. Phù Hồng kiết nhi Trầm Tiểu phi kiết. Đông Thủy thuộc Thận. Trầm Tiểu lương nhi Hoăn Đại bất lương.

24.Tứ Qúy đương Hoăn Đại, nhi phạ Hoạt Trường. Ngũ hành hỷ vượng sanh, nhi ưu khắc hại.

25.Sạ Trường sạ Đoăn, chơn vi Tà Túy chi tôn. Hốt Sác hồt Tŕ, tổng thị Qủi Mị chi mạch.

26.Thượng bất chí Thốn vi Dương tuyệt.
Hạ bất chí xích nhi Âm vong.

27.Tuy Ốc Lậu, Hà Du tử mạch, diệc qúa Tŕ qúa Sác chi tôn.
Tước Trác, Dũng Tuyền ác hậu, bổn thậm Hoạt thậm Phù chi loại.

28.Vô thái qúa, vô bất cập, bất Tŕ bất Sác th́ tồn Vị Khí chi danh.
Một đồng đẳng một hoăn ḥa, mạc Phù mạc Trầm, chân đắc b́nh nhân chi mạch.

29.Đương biện hữu lực vô lực, tu khán tồn thần thất thần.

30.Mạch bệnh tương đồng, chứng nguy nhi dị trị.
Mạch bệnh tương phản, chứng dị nhi nan y.

31. Nam Bắc bất ứng chi niên, tồn hồ thủ sát.
Ph́ sấu Trầm Tŕ chi mạch, tham dĩ đồng khán.

32.Bát yếu minh yên, vạn bệnh chướng hỷ.

33.Dương tuyệt tử ư Xuân Hạ. Âm vong tử tại Thu Đông.

34.Dương tuyệt trú tử. Âm tuyệt dạ vong.

35.Mạch tuy tức chí ḥa b́nh, bất lập căn nguyên chân năi chiết.
Chẩn kiến khứ lai Xúc cấp kiên cường, bổn trụ diệc vô ưu.

36.Lục mạch phân minh song trạng, lưỡng nhật hoàn vong.
Xích bộ Thăng Gíáng bất đồng, Âm Dương tương thoát.

37.Phù Đại qúa Sác, độc Dương chi ban.
Trầm Tiểu qúa Tŕ, Cô Âm chi biến.

38.Ứng nhi bất ứng, thị ủy chân nguyên.
Chỉ hạ triền miên, bức Hàn Khí trệ.

39.Yếu pháp do lai tùng bổn, chủ khách thông chi.
Diệu nhiên đặc thử cơ quan, Chính Tà quán hỷ.

40.Lục bộ án chi chí Sác, nhất ngưng năi thị chân Hàn.
Tam quan nhược chẩn vô Tŕ, nhất tác động hồ bức Nhiệt.

41.Thánh hiền Bát yếu, tổng tại nhất đoan.
Hư Thực thông chi, Tử sanh quán hỉ.


II - LƯ SAN MẠCH PHÚ CHÚ GIẢI

1.Từng nghe: "Bệnh cơ uẩn ảo, Mạch lư diệu huyền".
Nghe rằng: Cơ chế bệnh sinh và bệnh biến th́ thâm sâu, tàng ẩn. Việc xem mạch để biết bệnh th́ kỳ diệu khôn lường.

- Bệnh cơ: Then máy của tật bệnh; Chỉ cái nguyên lư mấu chốt về nguyên nhân, bộ vị và qúa tŕnh biến hóa của các bệnh nói trong Nội kinh.

- Diệu Huyền: Nội Kinh nói đường mạch đi là "Thần cơ diệu huyền" với 6 chữ :
Thượng là thăng, là khí mạch từ bộ xích tràn đến bộ thốn, là Dương sinh trong âm. Hạ là giáng, là từ bộ thốn hoàn về bộ xích, là Âm sinh trong Dương. Lai là nổi, là mạch đi từ trong xương thịt ra ngoài da lông. Khứ là ch́m, là mạch đi từ da lông mà vào xương thịt. Chí là đến, là sờ tay vào thấy mạch nhảy. Chỉ là ngừng, là không có mạch nhảy.

2.Tuy muôn vàn biểu Tượng rối ren, đem bát yếu tóm thâu đầy đủ.
Tuy có nhiều Mạch và nhiều bệnh chứng vô cùng phức tạp, nhưng không ra ngoài 8 yếu lĩnh.

- Ô. Hoạt Bá Nhân (1304-1386): Con người mắc phải bệnh có trăm ngàn chứng xuất hiện khác nhau, nhưng suy ra th́ cũng chỉ phân Biểu Lư, Hàn Nhiệt, Hư Thực, Tà Chính mà thôi.

3.Xem mạch tượng Phù, Trầm để phân bệnh trong ngoài. Đi mạnh là Thực, đi yếu là Hư. Đếm nhịp mạch đi Sác, đi Tŕ để xét bệnh Nóng hay lạnh. Dương chứng th́ mạch to, Âm chứng th́ mạch nhỏ.

- Mạch Phù Trầm để biết bệnh ở biểu hay ở lư. Mạch Phù mà đi mạnh là biểu thực, Mạch Phù mà đi yếu là biểu Hư. Mạch Trầm có lực là Lư thực, Trầm mà đi yếu là Lư Hư. Mạch Sác, mạch Tŕ để biết bệnh thuộc Nhiệt hay Hàn. Mạch Sác mà đi to là Dương chứng, Mạch Sác mà đi nhỏ là Âm chứng. Mạch Tŕ mà đi to là Dương chứng, Mạch Tŕ mà đi nhỏ là thuộc Âm chứng.


A/ - Mạch phù - Mạch Trầm:

Là nói đến vị trí nông sâu của mạch. Người sức khỏe b́nh thường và người có bệnh đều có thể gặp 2 mạch này. Hai mạch này để phân biệt bệnh ở ngoài Biểu hay ở trong Lư. Có lực, có thần là Thực, không có lực có thần là Hư.

a.Mạch phù: Sờ tay nhẹ vào đă thấy mạch, ấn nặng tay xuống thấy sức hơi yếu. Các mạch Hồng, Huyền, Trường, Tán thuộc loại Mạch phù.

- Tŕnh Chung Linh trong "Y Học Tâm Ngộ" xuất bản năm 1732. Biểu chứng: Mạch đi Phù, phát nóng, ớn lạnh, nhức đầu, đau tứ chi ḿnh mẩy, nghẹt mũi, rêu lưỡi mỏng. Lư chứng: Mạch đi Trầm, nóng dữ dội, hoặc nhiệt triều, tinh thần hôn mê, phiền táo, khát nước, tiểu vàng, đau bụng, rêu lưỡi vàng

- Trương Trọng Cảnh (145-208): Cảm phong hàn, mạch Phù Nhược là biểu hư, phong hàn ở Kinh Thái Dương, dùng Quế chi thang để phát tán; mạch Phù khẩn là biểu thực, phong hàn ở Kinh Thái Dương, nóng nhiều lạnh ít, Dùng Ma hoàng thang.

- Cảnh Nhạc (1563-1640): ¿Mạch Phù thông thường là Biểu chứng, nhưng trường hợp do Âm Hư, thiếu máu, trung khí khuy tổn tất nhiên mạch Phù Vô Lực (Hư, Nhu, Tán, Vi). Vậy không phải tất cả mạch Phù đều là biểu chứng, Dương chứng. Mạch phù có lực có thần là Dương chứng (Hồng, Hoạt, Trường, Khẩn). Dương có thừa th́ Hỏa ắt theo đó. Mạch phù vô lực, rỗng hẹp là Âm chẳng đủ, nếu cho thuộc biểu th́ hại vô cùng.

b.Mạch Trầm: Ấn mạnh tay xuống mới thấy mạch, nâng tay lên th́ không thấy ǵ. Các mạch Phục, Thực, Đoăn, Lao thuộc loại mạch Trầm.

- Trương Giới Tân hiệu là Cảnh Nhạc (1563-1640): Mạch Trầm thông thường thuộc Lư chứng, nhưng trường hợp bệnh do ngoại cảm vào sâu, Hàn tà bao bó, Kinh lạc không thông, do đó hiện ra mạch Trầm Khẩn. Đây lại là thuộc Biểu, không phải thuộc Lư. Mạch Vi Tế là Hư chứng, nhưng nếu các chứng kinh bế, đau bụng, mạch đi ẩn phục th́ không phải Hư.

- Bs Thang Bản Cầu Chân (Trong Hoàng Hán Y học): Trầm mà thực (Lao) th́ phải Hạ. Trầm mà Vi Nhược, Tế là thuộc Âm chứng phải dùng Nhân sâm, Phụ tử, Càn cương của thuốc ôn nhiệt.

- Trương Trọng Cảnh: Bệnh thiếu Âm, mạch Trầm, Tế, Sác ấy là bệnh ở Lư, không thể phát hăn.


B/ - Mạch Sác - Mạch Tŕ:
Xét độ mạch nhanh hay chậm. Mạch đi lớn, mạnh, nhanh th́ bệnh thuộc nhiệt, thuộc Dương. Mạch đi nhỏ yếu là bệnh thuộc Hàn, thuộc Âm.

- Mạch sác: Một hơi thở mạch đập 6 lần trở lên (mạch nhảy 90 lần/phút trở lên). Các mạch Tật, Xúc, Khẩn thuộc loại mạch Sác.

- Mạch Tŕ: Một hơi thở mạch nhảy 3 lần trở xuống (Mạch nhảy dưới 60 lần/phút). Các mạch Vị, Bại đều thuộc mạch Tŕ.

- Hải Thượng: Mạch Tŕ là biểu hiện có Hàn, có đau. Phù Tŕ là Biểu hàn, Trầm Tŕ là Lư hàn

- Cảnh Nhạc: Mạch Tŕ chủ chứng Hàn (Tạng phủ Hàn), song nếu chứng cảm thương hàn mới giảm, dư nhiệt c̣n, mạch đi Hoạt Tŕ vẫn là nhiệt.

4.Mạch sắc dáng đi rít róng, vốn vốn thiệt nguồn huyết kém, tinh hư. Mạch Hoạt nhịp chạy trơn tru, vốn là cội đàm lên khí động.

- Mạch Hoạt - Mạch Sắc:
Là xét sóng của mạch. Xem mạch đi trơn tru hay rít róng khó khăn. Hai mạch này để xem bệnh thuộc Khí Thực, có đàm hay Huyết kém, Tinh Hư.

a.
- Mạch Hoạt: Là loại mạch Phù Sác có lực. Mạch đi lanh lẹ trơn tru như hạt châu lăn trên mâm.

- Tuệ Tĩnh: Hoạt là Khí huyết đều thực hay bệnh Thực phân biệt bằng mạch Hoạt.

- Hải Thượng: Mạch Hoạt nói lên Đàm ở hệ thống hô hấp hay chứng Tích ở hệ tiêu hóa. Phụ nữ mất kinh mà có mạch Hoạt là có thai

b.
- Mạch Sắc: Mạch Sắc c̣n gọi là mạch Sáp. Các mạch Hư, Khâu, Kết thuộc lọai mạch Sắc.

- Hải Thượng (1720-1791) nói: Mạch Sắc thuộc mạch Âm, là mạch không lưu lợi trơn tru. Mạch chạy nhỏ mà chậm, đi lại khó khăn, khi năm khi ba không đều, gọi là mạch rít sáp như dao cạo ống tre

- Tuệ Tĩnh (TK14) nói: Bệnh Hư th́ phân biệt bằng mạch Sắc. Mạch sắc chủ tinh huyết bị thương tổn, thiếu máu, khí huyết ngừng đọng. Mạch Trầm Sắc là ứ huyết.

- Câu Đàm lên khí động: Đàm do hỏa động, nước ở thận nhảy đầy lên sinh đàm, phải giáng hỏa th́ đàm tiêu.

5.Phù, Đại, Hoạt, Sác là loại mạch Dương. Phải dằn dương mà trợ giúp cho Âm. Trầm, Tiểu, Sắc, Tŕ là loại Mạch Âm. Nên trừ lạnh mà thêm vào sức lửa.

- Phùng Triệu Trương viết "Phùng Thị Cẩm nang bí lục" 50 cuốn, năm 1702 nói: Mạch hữu lực là dương chứng, nên dùng thuốc mát mà giải, thuốc phát hăn mà tán. Nếu mạch Dương mà đi vô lực nên luận là Hàn. Mạch Âm mà hữu lực là thực nhiệt. Mạch Âm mà vô lực là Âm chứng nên dùng Ôn Bổ.

6.Ba bộ mạch thấy Phù Đại kèm Sác, chứng trùng dương thần khí loạn cuồng. Sáu bộ mạch đi Trầm Tiểu kèm Tŕ, chứng trùng âm tay chân quyết lănh.

Mạch Phù Đại là mạch Dương, lại kèm mạch Sác cũng là mạch Dương. Dương với Dương là chứng Trùng Dương, nóng lắm nên phát điên cuồng.

Mạch Trầm Tiểu là mạch Âm, lại kèm Tŕ cũng là mạch Âm. Âm với Âm là chứng Trùng Âm, lạnh lắm nên phát rét run.

7.Ngôi Dương thấy mạch Âm biểu lộ là Âm lấn ngôi Dương khá biết. Bộ Âm có mạch Dương hiện h́nh, ấy là Dương cướp cung Âm phải ngừa.

Đây là nói Âm Dương giao biến, đều là bệnh khó.

- Bộ Thốn thuộc Dương, nếu thấy mạch Âm (Trầm, Tiểu, Sắc, Tŕ) là Âm lấn ngôi Dương ta nên biết. Bộ Xích thuộc Âm, nếu thấy mạch Dương (Phù, Đại, Hoạt, Sác) là Dương lấn cung Âm, ta phải ngừa.

- Tuệ Tĩnh nói: Bộ thốn thuộc Dương, bộ xích thuộc Âm.
Nam bộ thốn mạch lớn hơn bộ xích là thuận. Nữ bộ xích mạch lớn hơn bộ thốn là thuận. Nam mạch tay trái thường to hơn mạch tay phải. Nữ mạch tay phải thường to hơn mạch tay trái. Nếu nam mà chẩn mạch nữ là bất túc. Nếu nữ mà chẩn mạch nam là thái quá.

8.Mạch Trầm Tiểu là tổn thương v́ thấp. Tŕ hàn, sác nhiệt phải phân chia. Mạch Phù Đại cảm mạo v́ phong, Đàm th́ đi Hoạt, Sắc là huyết hư.

Mạch Trầm Tiểu là bị Phong thấp, nếu đi sác là Thấp nhiệt, nếu đi Tŕ là Hàn thấp. Mạch Phù Đại là bị Cảm phong, nếu đi lưu lợi là có đàm, nếu đi rít róng là huyết hư.

9.Bên hữu bộ khí khẩu Mạch lớn, nội thương khí huyết hư lao. Bên Tả bộ nhân nghinh mạch to, ngoại tà b́ phu cảm thụ.

- Mạch Nhân nghinh nằm giữa bộ thốn và bộ quan tay trái bệnh nhân, để xem ngoại cảm (mạch lớn).

- Mạch Khí khẩu nằm giữa bộ thốn và bộ quan tay phải bệnh nhân để xem bệnh nội thương.

- Tuệ Tĩnh nói: Nếu mạch Nhân Nghinh to gấp đôi Khí Khẩu là thuộc ngoại cảm phong hàn. Nếu mạch khí khẩu to gấp đôi nhân nghinh là bệnh nội thương (do ăn uống, thất t́nh). Nếu cả hai nhân nghinh và khí khẩu đều đi lớn là ngoại cảm lẫn nội thương.

10.Bệnh Hư th́ bổ, bệnh Thực th́ phải tả. Hàn th́ ôn, Nhiệt phải dùng lương.

Dùng thuốc Hàn để trị bệnh Nhiệt, mà thấy c̣n nóng th́ phải trách ở Âm Hư; phải bổ Huyết để Tư Âm hay Tráng Thủy để chế chân Dương.
Dùng thuốc Nhiệt để trị bệnh Hàn, mà thấy c̣n Hàn th́ nên trách ở Dương Hư; Phải bổ Thồ để Tàng Dương hay Ich Hỏa để Tiêu Âm. Chữa như thế gọi là chữa theo phép chính trị, phản trị của Đông y. Chữa chứng Nhiệt dùng thuốc Hàn, nhưng cho uống nóng và chữa bệnh Hàn dùng thuốc Nhiệt, nhưng cho uống mát, mới có công hiệu. Chữa như thế gọi là ṭng trị.

Cơn Hàn Nhiệt không lâu: Bệnh phát nóng nhưng nóng không lâu là trách ở Tâm Hư; Bổ Tâm th́ Nhiệt tự thoái. Chứng Lạnh mà rét cơn không lâu, lúc lạnh lúc ấm th́ trách ở Thận Hư. Bổ Thận th́ hàn tự giải. V́ Tâm chủ nhiệt, Thận chủ hàn.

11. Muốn biết bệnh sống chết phải tường lẽ Thực Hư cho rơ.

- Xét Mạch Hư Thực để biết bệnh sống hay chết là phép mầu nhiệm của Đông Y.

- Hải Thượng Lăn Ông: Không kể Bộ Vị nào, Phù hay Trầm, Đại hay Tiểu, hễ ấn tay sâu tới xương mà vẫn có Lực, có Thần là THỰC; không có Lực, có Thần là Hư. Then chốt của nghề y không có ǵ cần thiết hơn là phân biệt Hư Thực. Nếu không thấu triệt mà cho uống thuốc bậy th́ giết người nhanh hơn đâm chém. (Châu ngọc cách ngôn).

12.Bệnh Nhiệt thấy mạch Tŕ Tiểu th́ chết, cùng phát điên, ghẻ chốc, mạng không c̣n. Bệnh Hàn thấy Mạch Trầm Sắc th́ sống, bệnh tả, lỵ, lậu, băng cũng dễ lành.

- Bệnh nhiệt thuộc Dương chứng, đáng lư mạch phải Phù Sác là Dương mạch mới thuận, trái lại đi Tŕ Tiểu là Âm mạch. Mạch bệnh trái nhau rất khó chữa.

- Bệnh hàn thuộc Âm chứng, mạch Tŕ Sắc cũng là Âm mạch. Bệnh Âm đi mạch Âm. Mạch Bệnh tương đồng th́ dễ chữa.

13.Bệnh đau lâu, Mạch Phù Đại chẳng nên. Mới đau, mạch Trầm Tiểu khó lành.

- Bệnh lâu, bệnh măn tính người đă hư yếu, nếu mạch đi Phù Đại là Âm đă qúa hư suy.

Mới đau, mạch phải thực, nếu Trầm Tiểu là chính khí qúa suy kém, nên khó chữa lành.

- Bệnh mới phát phải xét là ngoại cảm hay nội thương mà trị: Bệnh từ ngoài mà cảm vào, lúc mới bị bệnh phải dùng thuốc phát Hăn, phát Tán (Ôn tán, lương tán). Bệnh từ trong mà phát ra (do thất t́nh, do ăn uống không tiết độ, làm việc không chừng mực), lúc mới bị bệnh phải dùng thuốc Tiêu đạo hay B́nh bổ. Bệnh mới phát, nếu chần chừ không chữa ngay hay chữa sai th́ Tà từ ngoài lấn vào sâu bên trong, từ Dương chuyển vào Âm, tân dịch ngày một suy kiệt; Khí Huyết ngày một Hư Lao mà thành Hư chứng, phải dùng phép Bổ.

- Nội Kinh: "Bệnh mới phát c̣n chia nội thương hay ngoại cảm. Bệnh đă lâu chỉ có Hư mà thôi". Và "Thấy Mạch Tiểu mà sắc mặt không đổi khác là bệnh mới. Sắc và Mạch không biến đổi khác cũng là bệnh mới. Thấy Mạch và 5 sắc đều biến đổi khác là bệnh lâu".

14.Lúc thai nghén, Mạch Hoạt Đại th́ tốt, kỵ Sắc tiểu. Khi sanh sản, mạch Trầm Tiểu th́ tốt, kỵ Phù Đại.

- Khi có thai mạch nên Hoạt Đại, v́ huyết đọng khí tụ, nếu mạch Sắc Tiểu sẽ thiếu máu nuôi thai. Khi sanh mạch Trầm Tiểu, nếu Phù Đại rất dể bị nhiễm trùng thai sản.

- Nội Kinh, Thiên ¿Âm Dương biệt luận¿: ¿Âm bác, Dương biệt là có thai¿. Âm bác là mạch bộ Xích nhảy mạnh lên tay; Dương biệt là Mạch bộ Thốn nhảy khác hẳn, như mạch ở tay người khác, không liên lạc với nhau.

15.Người trai trẻ mạch nên Hoạt Đại, nếu Sắc Tiểu mạng chẳng đặng dài. Cụ ǵa nua mạch cốt Tiểu Trầm, nếu Phù Đại thọ chẳng được lâu.

- Lư Đông Viên: Trai trẻ khí huyết cường thịnh, mạch nên Xung thực (Phù Đại). Nếu Sắc Tiểu (Vi Nhược) gọi là mạch bất túc (nguyên khí suy) th́ lắm bệnh. Nhưng nếu Tế Tiểu mà hoà hoăn, ba bộ đều nhau th́ đó là mạch trời phú cho người sẽ thảnh thơi, khỏe mạnh, nếu Tế mà cứng rắn th́ cũng không tốt. Người già khí huyết đă suy, mạch nên suy nhược (Trầm Tiểu) nếu quá vượng (Phù Đại) là mạch bệnh. Nhưng nếu mạch Phù thịnh mà không nhanh gấp, mạch to mà mềm, ăn khỏe ấy là mạch trời cho trường thọ. (Nội Kinh gọi là mạch Thuần dương). Nếu mạch thịnh mà nhanh gấp (Táo, Tật) là tượng Cô dương rất nguy (có Dương mà không Âm).

16.Mùa Xuân Hạ khí Dương đang thịnh, Hoạt Đại th́ tốt, Trầm Tiểu không nên. Mùa Thu Đông Âm khí đang sinh, mạch cốt Tiểu Trầm, thấy Hoạt Đại là dỡ.

- Nuôi người và vạn vật là nhờ khí hậu thuận ḥa. Hại người và vạn vật cũng do thời tiết, khí hậu trái thường. Con người là Tiểu vũ trụ, mạch trong con người phải đi thuận với thời tiết. Mùa xuân mùa Hạ khí hậu ấm nóng, nên mạch phải Hoạt Đại th́ tốt. Mùa Thu mùa Đông khí hậu mát lạnh, nên mạch phải Trầm Tiểu mới thuận. Mạch Tượng c̣n ảnh hưởng theo hoàn cảnh địa lư: Người phương bắc hàn khí lạnh lẽo nên da lông chặc chẽ, mạch đi Trầm Thực. Người phương Nam, gần xích đạo, nóng ấm nên da lông thưa thớt, mạch thường Phù Đại, Vi Sác, ít sức.

17.Mạch cùng thời tiết thuận th́ sống, Mạch nghịch với thời tiết th́ chết.

- Người xưa nói: "Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên gỉa vong" nghĩa là: Thuận theo thời tiết th́ sống, nghịch với thời tiết th́ chết.

- Nội Kinh Linh Khu viết: "Con người sống là nhận lấy khí của trời đất và phải luôn luôn sống hoà hợp cùng trời đất". Mạch thuận với thời tiết th́ khỏe mạnh, mạch nghịch với thời tiết th́ chết.

18.Mạch ba bộ dẫu rằng ngưng tuyệt, nếu do đàm uất th́ chẳng sao. Mạch Sáu bộ tuy c̣n đều, nhưng người vóc ốm, thịt khô th́ cũng chết.

- Ô.Từ Xuân Phú nói: Bệnh đau lâu mà không mạch, người không tỉnh là nguyên khí đă hết tất nhiên phải chết. C̣n bạo bệnh (bệnh th́nh ĺnh) mà không có mạch, do độc bệnh tích tụ, đàm ẩm không thông, nếu dùng phép Hăn, Thổ, Hạ đúng phép để trục độc ra th́ có thể khỏi được.

19.Mạch Đại là Tà khí đang găng thịnh, bệnh thường nặng. Với chứng Tích tụ th́ nên, mà chứng Hư lao th́ chẳng nên. Mạch Tiểu là chứngDương suy khí nhược. Chứng Hư tổn th́ lành, mà chứng Tích tụ chẳng lành.

- Mạch Đại - Mạch Tiểu: Là xét thể tích của mạch hay xét sóng mạch lớn nhỏ để xem Tà Khí thịnh hay Chính Khí suy. Để xem ngoại cảm hay nội thương.

a.Mạch Đại: (lớn) Phù mà mạnh mẽ có lực. Các mạch Hồng, Khẩn, Trường, Thực, Cách đều thuộc mạch Đại. Mạch Đại là Tà khí thịnh. Bị Ngoại cảm.

- Tuệ Tĩnh nói: "Tà khí phân biệt bằng mạch Đại. Có ngoại tà xâm phạm"

b.Mạch Tiểu: (mạch nhỏ) hay c̣n gọi là mạch Tế. Mạch đi Trầm mà nhỏ yếu. Các mạch: Vi, Nhược, Bại đều thuộc loại mạch Tiểu. Mạch Tiểu là chánh khí suy yếu, khí huyết hư suy. Bị nội thương, thất t́nh.

- Lư Thời Trân (1518-1593): Mạch Tế (tiểu) chủ yếu do khí huyết hư suy. Các bệnh Hư tổn Lao thương do thất t́nh. Ngoài ra Dương khí hư nhược, thủy thấp xâm nhập gây bệnh ở lưng và thận hoặc tinh khí bị tổn thương ở trong, bên ngoài dương không vững gây ra chứng tự hăn cũng có thể xuất hiện mạch Tiểu.

20.Mạch bệnh tương sanh, tương thuận th́ sống. Mạch bệnh tương phản, tương khắc mạng chẳng c̣n.

- Cảnh Nhạc nói: "Phàm bên trong sanh ra chứng Bất Túc, kỵ thấy mạch Dương như Phù, Hồng, Khẩn, Đại (có lực). Cảm nhiễm ngoại tà bệnh thuộc Hữu Dư th́ kỵ thấy mạch Âm như Trầm, Tế, Vi, Nhược (Tiểu). Mạch bệnh tương phản th́ bệnh khó trị".

Bệnh mới mắc mà mạch đi Phù, Hồng, Sác, Thực là thuận. Bệnh đă lâu mà mạch đi Hưỡn, Vi, Nhược là thuận. Mạch Quư ở chỗ hợp nhau. Nếu mạch Hữu dư mà chứng bất túc hay mạch bất túc mà chứng hữu dư đều là khó trị. Bệnh dù nhẹ cũng kéo dài.

21.Ngoài Phù Sác, mà trong không có là Âm thoát Dương cô, phải dè chừng. Mạch đi Trầm Tŕ qúa, xích c̣n thốn mất, chứng độc Âm, Dương đă mất rồi.

- Nội Kinh: "Càng Phù Sác lắm th́ càng Hư lắm". Ư nói mạch Phù Sác vô lực là Hư nhiệt, Khí Huyết Hư.

- Hoàng Danh Sướng (1753-1841): "Mạch Hồng Đại quá là trong dương không có âm..

Mạch Huyền Sác, Tế Sác là chân Âm, chân Dương không đủ: Nên dùng Lục vị địa hoàng thang.

Mạch Hồng Sác là thận Âm khuy tổn, khiến thận Dương không có chỗ dựa : Nên dùng Bát Vị địa hoàng thang gia Sinh Mạch ẩm (mạch môn, ngủ vị, ngưu tất) để liểm hỏa xuống.

Sáu bộ Hồng Đại khác thường là Thận Âm đại hư, không tàng nạp được Thận Dương: Dùng Lục Vị bội Đơn b́, gia ít Nhục quế uống nguội, uống nhiều mới có kết quả. Sáu bộ Hồng Đại khác thường (Phù Sác), ấn tay xuống vô lực là do dâm dục quá độ, âm tinh suy kiệt, thất huyết dùng Thập Toàn Đại Bổ uống với Bát Vị hoàn.
Nếu mạch Phế Hồng Đại th́ bỏ xuyên khung, Huỳnh kỳ gia sanh mạch ẩm.

Sáu bộ đều Tế Sác vô lực là Âm Dương tiên thiên và hậu thiên đều Hư: Sáng uống Bát Vị bội Quế Phụ, chiều uống Nhân Sâm Dưỡng Vinh bỏ Trần b́ (Nhân Sâm Dưỡng Vinh tức Thập toàn; Trừ khước xuyên khung, ngũ vị liên; Trần b́, viễn chí gia khương, táo; Tỳ Phế, Khí Huyết bổ phương tiên). Trầm Tŕ quá Âm thoát Dương côi, Âm Dương đều khuy tổn dùng Thập Toàn Đại Bổ bội Sâm tốt.

22.Mùa Xuân can mộc vượng. Mạch Hoạt Đại là thuận. Sắc Tiểu là nghịch. Mùa Thu phế Kim thịnh, Mạch Tiểu mao th́ thuận, c̣n Đại Hồng không thuận.

- Mùa xuân thuộc mộc, mạch Hoạt Đại cũng thuộc Can Mộc nên thuận. Mạch Sắc Tiểu thuộc Phế kim, Kim khắc Mộc nên nghịch.

- Mùa Thu thuộc Kim, mạch Tiểu Mao (nhỏ, mềm) cũng thuộc Phế Kim nên thuận. Mạch Hồng Đại thuộc Tâm Hỏa, Hỏa khắc Kim nên nghịch.

23.Mùa Hạ Tâm Hoả thịnh. Mạch nên Phù Hồng th́ tốt, kỵ Trầm Tiểu. Mùa Đông Thận Thủy sanh. Mạch Trầm Tiểu th́ tốt, kỵ mạch Hoăn Đại.

- Mùa Hạ thuộc Hỏa, Mạch Phù Hồng cũng thuộc Tâm Hỏa nên thuận. Mạch Trầm Tiểu thuộc Thận Thủy, Thủy khắc Hỏa nên nghịch.

- Mùa Đông thuộc Thủy. Mạch Trầm Tiểu cũng thuộc Thận Thủy nên thuận. Mạch Hoăn Đại thuộc Tỳ Thổ, Thổ khắc Thủy nên nghịch.

24.Tứ qúy, Tỳ thống quản, Mạch thuận Hoăn Đại mà chẳng thuận Hoạt Trường. Ngũ hành chịu khí sanh vượng mà chẳng ưa khắc hại.

- Tứ quư là những tháng trưởng Hạ (tháng 3,6,9,12) thuộc Thổ, ứng với bộ mạch Tỳ. Mạch Hoăn Đại th́ thuận (Hoăn Đại là mạch Tỳ thổ), kỵ Hoạt Trường (Can mộc khắc Tỳ Thổ).

Mạch Huyền, Câu, Mao, Thạch là mạch của 4 mùa xuân, hạ, thu, đông; nhưng nếu có kèm Ḥa Hoăn th́ gọi là mạch có Vị Khí. Nếu không Ḥa Hoăn th́ gọi là Mạch Chân Tạng là Mạch chết. Mạch chân tạng là mạch không có vị khí. V́ vị khí là mạch ḥa hoăn, là nguồn cốc khí hậu thiên.

Nội Kinh nói: Con người lấy thủy cốc làm gốc. Mạch không có vị khí là không có thủy cốc th́ chết.

25.Thoạt dài thoạt ngắn tựu h́nh Tà Quái. Khi Sác khi Tŕ thiệt chứng qủy ma.

- Thoạt dài, thoạt ngắn: Là nói đến sóng mạch khi đến, khi đi (lai khư) không đều.

- Khí Sác khi Tŕ: Là nói đến tốc độ mạch lúc nhanh lúc chậm. Những người có các mạch này thuộc nội thương, tâm bệnh. Tâm chủ huyết mạch, tàng thần, người có mạch này do rối loạn tim mạch, tinh thần hoảng loạn, sợ sệt một vấn đề ǵ đó như nhà cửa ở nơi u tối, có người thân qua đời¿ Đây là bệnh tinh thần, phải giải quyết bằng tinh thần song song với uống thuốc trợ tâm, an thần.

26.Trên đi chẳng đến bộ Thốn là Dương tàn khí lụi. Dưới mạch lui chẳng đến bộ Xích là Âm thể bại vong.

- Bộ thốn thuộc Dương, Bộ xích thuộc Âm. Ấn tay vào ba bộ thấy mạch không tới bộ Thốn là Dương khí tuyệt. Mạch không tới bộ Xích là Âm khí tuyệt.

- Thượng bộ mạch hữu lực, Hạ bộ mạch không có lực là trên thịnh dưới hư, phải dùng phép liễm giáng. Mạch thượng bộ vô lực, mạch hạ bộ hữu lực, là dưới Thực trên Hư, phải dùng phép Thăng đề.

- Nan Kinh: Mạch có Mạch Thái qúa, có mạch Bất cập, có mạch âm dương thưà vũ, Có mạch Phúc (từ trên đổ xuống, từ thốn tràn xuống xích) là Dương lấn Âm; Mạch Dật (từ dưới xích tràn lên qúa ngư tế), Âm lấn Dương, là có chứng quan cách, là Âm thừa.

27.Mạch đi qúa Tŕ, qúa Sác là tượng Hà du, Ốc lậu thuộc chứng chết. Mạch đi qúa Hoạt, qúa Phù là h́nh Trước trác, Dơng tuyền cũng là bệnh ngặt chẵng sai.

Bệnh nhân trước khi chết thường có các mạch:
- Mạch ốc lậu: Mạch rất chậm như nước mái nhà dột nhỏ xuống.
- Mạch Hà du: Lâu lâu mạch mới nhảy một cái, như con tôm búng.
- Mạch trước trác: Mạch nhảy nhanh 2, 3 cái rồi ngừng như chim sẽ mổ thóc
- Mạch Dũng Tuyền: Mạch cuồn cuộn tuôn ra mà không trở lại, tán loạn, tựa có tựa không, như nước tràn đầy ở khe suối, như dạng nồi canh trào.

28.Mạch đi dù Tŕ Sác hay Đại Tiểu, nhưng không thái qúa hay bất cập là c̣n vị khí.

- Mạch đi nhanh chậm, lớn nhỏ ǵ cũng được; nhưng nếu không qúa nhanh, quá chậm, quá lớn hay qúa nhỏ là Mạch Ḥa hoăn, là c̣n vị khí. C̣n vị khí th́ sống.

- Hoàng Danh Sướng: Mạch THỰC, có lực có thần th́ trước sao sau vậy. Mạch HƯ không có vị khí th́ lúc to lúc nhỏ không đều nhau.

29.Mạch Thực th́ có lực, vô lực ấy là Hư. Lại cần xem C̣n thần hay mất thần.

- Tâm chủ Huyết, tàng thần, mạch là phủ chứa máu, dẫn máu. Tâm Thần kiện vượng th́ mạch tượng có thần. Tâm Thần suy yếu th́ mạch tượng không có thần. Mạch đi hoà hoăn là có vị khí, rất tốt v́ tượng của vị khí là Chánh khí, tượng của bệnh khí là Tà khí. Nếu chính khí đến tất tà khí phải lui và ngược lại. Nếu muốn xét bệnh tăng giảm phải lấy mạch vi khí làm chủ mà phân biệt. Như ban đầu mạch đi Huỡn, nhưng sau đó mạch đi Cấp là bệnh đang tăng; nếu ban đầu mạch đi Cấp, sau lại đi Huỡn là bệnh đang giảm.

- Hoàng Danh Sướng nói: Không kể chứng Âm hay Dương, bệnh lâu hay mới cảm, không kể Phù hay Trầm, Tŕ hay Sác. Hễ ấn tay hơi mạnh mà cảm thấy Vô Lực là không phải Thực chứng. Ấn tay xuống vừa phải, giữa Phù với Trầm, cảm thấy mạch Nhu Ḥa vừa phải, không mạnh quá cũng không yếu quá, không dài quá cũng không ngắn quá, không to quá cũng không nhỏ quá đó là biểu hiện của mạch có Vị Khí. Có Vị Khí th́ sống, không có Vị Khí th́ chết.

- Tuệ Tĩnh nói: Nam bệnh lâu ngày mà mạch khí khẩu xung thịnh hơn mạch nhân nghinh là có Vị Khí. Nữ bệnh lâu ngày mà mạch Nhân Nghinh xung thịnh hơn mạch khí khẩu là có Vị Khí.

- Nội Kinh: Các mạch Phù không có căn (không có Vị Khí) đều chết. Mạch cốt yếu phải có thần, có căn, có lực, có thần như cây có rễ.

- Mạch quyết nói: Bộ quan mạch tuy mất mà bộ xích mạch vũng vàng, gọi là mạch gốc vẫn c̣n, bệnh nặng cũng không lo.

- Lư Đông Viên nói rằng: Mạch quư ở có thần có lực, tuy mạch đă đến lục Sác, Thất cực, Nhị bại nhưng nếu có thần có lực th́ c̣n có thể sống được.

30.Bệnh mạch đồng nhau, chứng nặng mà dể chữa. Bệnh mạch trái nhau, bệnh nhẹ cũng khó lành.

31.Hăy xem Nam Bắc, năm bất ứng, xét kỹ cho rành. Người béo gầy mạch Phù Trầm khác nhau phải phân cho rơ.

- Hoàng Danh Sướng: Mạch trong con người, mạch bất ứng là mạch đi khác thường, không giống với các bộ mạch khác. Mạch Bất ứng là mạch Trầm Tế. Nó vận chuyển theo vận khí hàng năm. Bộ nào tay nào đáng bất ứng mà bất ứng, đó là mạch thuận thiên ḥa, bệnh nhẹ. Trái lại mạch đáng bất ứng ở bộ này lại bất ứng ở bộ khác, đáng bất ứng ở tay này lại bất ứng ở tay kia là mạch phản thiên ḥa, nguyên khí hư suy, bệnh nặng.

- Lư Đông Viên: Người béo đầy, da thịt đẩy đà, th́ khí thịnh ở ngoài, mạch nên Trầm Hồng. Người gầy nhỏ, khí lẫn ở trong, da thịt mỏng, mạch nên Phù Sác.

Cách tính Ngũ Vận Lục khí và mạch Bất ứng: Xem "Vận khí bí điển" của Hải Thượng Lăn Ông.

32.Bát cương đă rành th́ muôn bệnh đều rơ.

- Bệnh tuy nhiều, nhưng tóm lại chỉ có: Biểu lư, Hàn nhiệt, Hư thực, Tà Chính.

Nó ứng với: "Phù Trầm, Tŕ Sác, Hoạt Sắc, Đại Tiểu". Khi phân rơ các yếu điểm trên th́ mọi bệnh đều rơ.

33.Chứng Dương tuyệt chết vào mùa xuân, mùa hạ. Chứng Âm vong chết vào mùa Thu, mùa Đông.

34.Dương tuyệt chết vào ban ngày. Âm vong chết vào ban đêm.

- Mạch bộ thốn là Dương, bộ xích là Âm. Mạch tay trái là Dương, mạch tay phải là Âm. Người chết có khi Âm tuyệt trước, có khi Dương tuyệt trước. Bộ Dương tuyệt sẽ chết vào ban ngày và chết vào mùa Xuân, mùa Hạ; Bộ Âm tuyệt sẽ chết vào ban đêm và vào mùa Thu và mùa Đông. V́ con người luôn phải có chân âm, chân dương tàng phục để sinh hóa. Nay hiện chứng Dương tuyệt, tức mạch chân tạng không c̣n nữa, th́ đến mùa Xuân, mùa Hạ sẽ không c̣n chân Dương để nẩy nở, tất phải chết. Chân Âm tuyệt th́ đến mùa Thu, Đông cũng không có chân Âm để phát sinh, nên phải tiêu vong.

- Hoàng Nguyên Cát (1702-1779): Hễ người gầy c̣m mà tinh thần thanh sảng th́ đa số mắc bệnh đột ngột mà chết, v́ Âm khí tuyệt. Người h́nh dáng béo đầy, thần trí hồ đồ, th́ đa số mắc bệnh hôn mê mà chết, v́ Dương khí tuyệt.

35.Mạch tuy tức chí ḥa b́nh mà cội gốc lung lay th́ phải găy. Mạch nhảy lao xao gấp rút nhưng căn rễ vẩn c̣n chẳng đáng lo.

- Mạch kinh nói: Bộ quan mạch tuy mất mà bộ xích mạnh vững vàng, gọi là mạch gốc vẫn c̣n, bệnh dầu nặng cũng không lo. (xem lại 11, 28, 29).

- Nội Kinh: H́nh thịnh, mạch tế, hơi ít như thở không đủ th́ bệnh nguy và Da thịt teo hết, tuy rằng mạch vẫn c̣n điều ḥa, cũng chết.

36.Âm dương bác biệt, Sáu mạch ly quyết, hai ngày mạng vong. Xích bộ thăng giáng chẳng đều, là Âm ĺa dương thoát, cũng thuộc chứng nguy.

- Câu "Lục mạch phân minh song trạng, Xích bộ thăng giáng bất đồng" là lấy trong Nội Kinh Tố vấn, chương "Âm Dương Tương Ứng Loại Luận". Ư nói : Mạch tam âm tam dương bác biệt, âm dương ly quyết th́ 2 ngày là chết.

- Câu này trong "Quế Sơn Y Học yếu chỉ" của Đốc học Nguyễn Gia Cát, thế kỷ 18 ghi: "Lục mạch bất cổ, lưỡng nhật mạng vong" nghĩa là: "Sáu bộ mạch không c̣n nữa th́ hai ngày sẽ chết".

- Thiên "Tam bộ cửu hậu" của Nội Kinh: Mạch đi không đều, lúc Đại lúc Tiểu, lúc nhanh lúc chậm là bệnh nguy.

37.Mạch Phù Đại qúa sác, chứng cô dương rất nguy. Mạch Trầm Tiểu qúa Tŕ, chứng độc âm khá sợ.

- Trưong Cảnh Nhạc: "Mạch Sác thông thường thuộc nhiệt, nhưng trường hợp bệnh do chứng Hư tổn, Khí Dương quá hư suy, Khí huyết hỗn loạn, chứng hư càng nhiều th́ mạch Sác càng nhanh. Như thế không thể nói mọi mạch Sác đều thuộc nhiệt¿. Như mạch Tật một hơi thở mạnh nhảy 7,8 lần là chứng Âm khuy Dương thoát.

38.Năm tương ứng mà mạch bất ứng, Tạng bị suy mà Dương khí hư lao. Mạch chạy ĺ ŕ bất minh chí chỉ. Bệnh huyết Hàn nên Dương khí tụ ngưng.

- Ô. Hoạt Bá Nhân: Người xem mạch phải biết 6 chữ : Thượng (trên), Hạ (dưới), Lai (tới), Khứ (lui), Chí (đến), Chỉ (ngừng). Thượng, lai, chí thuộc Dương. Hạ, khứ, chỉ thuộc Âm.

- Câu 2 ư nói mạch nhảy không rơ ràng. Không có sóng mạch. Không có khoảng ngừng rơ ràng, là bệnh Huyết Hàn.

39.Bí quyết dựa nơi ḷng lănh hội, mà phân định Chủ Khách đôi đường. Óc quán thông, lưu ư xét soi mấu chốt, Chính Tà mọi chỗ.

- Mạch là cái tượng của khí huyết, không thể dùng lời lẽ mà diễn giải hết ư được, giỏi hay dở là tùy theo sự lĩnh hội, óc quán thông, sự cảm nhận, phân biệt được Hư Thực, Tà Chính của bệnh.

- Chủ bệnh: C̣n gọi là gốc bệnh, là nguyên nhân chính sinh ra bệnh. Trong "Y Hải Cầu Nguyên" của Hải Thượng: Các chứng Uất làm cho Khí Huyết không thông (do ngoại cảm, do nội thương thất t́nh, ăn uống không kiêng cử, làm việc không điều độ), nên dùng Bát Vị Tiêu Dao là hay hơn cả. Chữa Hư Nhiệt phải bổ Thổ để Tàng Dương, v́ "Cam Ôn trừ đại nhiệt"; nên dùng Bổ Trung Ích khí, Quy Tỳ, Tứ Quân, Lư Trung, Kiến Trung hay Tư Âm Giáng Hỏa như Lục Vị hoàn. Chữa Am Hư - Dương Hư: Dương hậu thiên hư th́ bổ tỳ vị (Bổ Nguyên Khí) dùng Sâm, Truật, Phụ mới cứu được chứng vong dương, nếu dùng Bát Vị th́ không cứu nổi. Âm tiên thiên hư th́ bổ thận thủy phải dùng Lục Vị hợp Sinh Mạch Ẩm mới cứu chứng vong âm; nếu dùng Tứ Vật không thể cứu được. Bệnh nặng phải t́m Thủy Hỏa mà trị. Chữa chứng Hỏa, chứng Đàm phải giáng khí. Chữa chứng thấp phải lợi tiểu tiện. Chữa chứng tích phải dùng Ôn bổ

- Khách bệnh: Là bệnh đến sau trong quá tŕnh bệnh biến, không phải là gốc bệnh.

- Chánh khí: Là sức đề kháng của cơ thể. Chánh khí suy th́ sanh bệnh.

- Nội Kinh nói: Tà khí thắng Chính khí là Chứng thực, Chính khí bị Tà khí chiếm đoạt là chứng Hư. Một bên phải đuổi tà mới bổ chính. Một bên phải bổ chính cho mạnh để Tà khí phải lui.

40.Sáu bộ đều đi chí Sác, có một ngưng, vẫn thiệt chân hàn. Ba quan mạch tuy thấy rất Tŕ, có nhịp động, biết Nhiệt Tà rực rỡ.

- Mạch đi nhanh, nhưng đè xuống th́ có ngưng một cái là thuộc hàn; v́ cực nhiệt phản hàn. Mạch đi tuy rất chậm, nhưng khi nhấn xuống thấy mạch nhảy mạnh, là thực nhiệt; V́ nhiệt thâm quyết diệc thâm.

- Trầm Sác có lực là lư nhiệt; Tế Sác vô lực là đại hàn, cho dùng Phụ Tử Lư trung thang hay Lục quân thang gia Càn cương.

41.Danh tuy gọi tám nguồn, thực cũng quy về một ngă. Lẽ Thực Hư thông hiểu đă tinh vi, cơ sanh tử quyết đoán không nghi sợ.

- Tuy gọi 8 yếu lĩnh, nhưng rút lại chỉ c̣n 2 chữ HƯ THỰC là cốt yếu. Không nắm được vấn đề này th́ việc bắt mạch chỉ là "để tay nói dựa, đón chừng". HƯ THỰC là mấu chốt của việc sống chết, tử sinh.

Đây là bộ mạch cao cấp nhưng lại rất giản dị, sâu sắc, dể áp dụng. Tŕnh độ nào cũng có thể áp dụng được, nếu chịu khó nghiên cứu học tập. Mấu chốt vẫn là nắm cho được HƯ THỰC, cũng là mấu chốt của nghề Y.

Có thể nói Lư San là bộ mạch của Tiên Thánh để lại cho chúng ta, ai có cơ duyên th́ lĩnh hội được.

Mặc dù, Chúng tôi hết sức cố gắng, cũng mong góp phần vào việc thừa kế, giữ ǵn vốn qúy YHCT. Nhưng do tŕnh độ có hạn, nên c̣n nhiều sai sót. Kính mong quư vị đồng nghiệp chỉ giáo cho.

Phan Thiết, Đầu xuân Canh Th́n (2000).

Lương y Trần Sỹ.
8 Lê Hồng Phong, Tp Phan Thiết, tỉnh B́nh Thuận.
ĐT:0988170818 - 0623823505.
Email: Sy, nguyenhungbt.tran@gmail.com

Đăng Tạp Chí Đông y số 363/2004.


Dịch Môm:

Lư San Mạch Quốc Âm Diễn Ca & chú giải

Trong bộ "Quế Sơn Y Học Yếu Chỉ" của Đốc học Hoa xuyên Hầu NGUYỄN GIA CÁT (học tṛ của Vơ Trường Toản, bạn của Lê Quang Định) biên soạn để huấn luyện cho lương y ở Đàng Trong vào khoảng cuối TK 18, có chép tay bộ "Cổ mạch Quốc âm diễn ca" bằng Hán Nôm. Một số sách về y học của Triều Nguyễn cũng có chép bộ mạch này và có nhiều thế hệ y gia Việt Nam rất tâm đắc, trong đó có Nguyễn Đ́nh Chiểu. Danh y Đỗ Phong Thuần đă dịch ra Việt Ngữ in trong "Việt Nam Y Học thực nghiệm", xuất bản 1956 tại Sài G̣n.

Tất cả đều chưa có chú giải, nên việc t́m hiểu bộ mạch độc đáo này c̣n rất nhiều khó khăn.

Nay tôi xin dịch lại và chú giải, nhằm phổ biến đến Qúy vị đồng nghiệp, một bông hoa đẹp của nền Y học Việt Nam.

A/ TRẠNG THÁI CÁC MẠCH:

Hoa xuân đua nở ngoài hiên,
Vui bề nhân thuật, say miền Nho Y.
Trải xem cương mục chữ thi [1]

Đặt vần quốc ngữ nôm na tỏ bày.
Trước là ghi nhớ lấy hay,
Sau là nhủ bảo tỏ bày con em.
Khuyên ai có chí th́ xem,
Hai mươi bảy mạch, vậy bằng kể ra.

Mạch Phù nổi ở ngoài da.
Dường như gió thổi lông nga nhẹ nhàng [2].

Mạch Trầm nhục lư thâm tàng.
Nặng tay mới thấy rơ ràng chẳng sai [3]

Mạch Tŕ đỏng đảnh khoan thai.
Một hơi ba đến chẳng sai đâu là [4].

Mạch Sác hô hấp đều ba.
Một hơi sáu đến, vốn là đinh ninh [5].

Mạch Hoạt lưu lợi phân minh.
Dưới tay lúc nhúc dạng h́nh như châu [6].

Mạch Sắc tŕ trệ lo âu.
Hoặc tán hoặc chỉ, chẩn hầu gian nan [7].

Mạch Hư lực nhược h́nh tàn,
Tŕ Đại mà yếu, chỉ âu mơ màng [8]

Mạch Thực, Đại mà thả Trường.
Phù, trung, trầm hậu, mạnh bằng như nhau [9].

Mạch Trường bổn vị qua lâu.
Như sào gốc ngọn, tề nhau một loài [10].

Mạch Đoăn bổn vị chẳng dài.
Hai đầu lúc nhúc khác loài mạch Vi [11].

Mạch Hồng lai thạnh, khứ suy.
Liêu tiêu măng chí, khác ǵ nước sôi [12].

Mạch Vi lăng đăng thấp thoi.
Nhẹ thời dường thấy, nặng thời dường không [13].

Mạch Khẩn mau gấp tương nhùng.
Như thằng, như sách chuyển hồng lại qua [14],

Mạch Hoăn ứng chỉ khoan ḥa.
Một hơi bốn chí, thật là thung dung [15].

Mạch Khâu, ngoài có trong không.
Khác ǵ hành lá, không trong có ngoài [16].

Huyền như lôi thẳng dây dài.
Như dây cung cứng, như dây sắc cầm [17].

Mạch Cách dưới tay lâm râm.
Như đè mặt trống, ầm ầm khác chi [18].

Mạch Lao: Trường Đại không b́.
Cùng loài Trầm, Phục, Thực th́ tới nơi [19].

Mạch Nhu phơi phới như hơi.
Phù mà lại Tế, khác loài mạch Vi [20].

Mạch Nhược trọng án đắc chi.
Sớm chiều vô lực ấy th́ là danh [21].

Mạch Tán, hoang mang tan tành.
Dưới tay tan tác tựa h́nh hoa rơi [22].

Mạch Tế tí tỉ nhỏ thay.
Trầm mà vô lực, xưa nay đă truyền [23].

Mạch Phục phải ấn nặng, yên.
Suy cân, khán cốt, t́m miền trong xa [24].

Mạch Động, dũng xuất bôn ba.
Như hạt đậu lớn, chẩn ḥa ở quan [25].

Mạch Xúc, bằng suy lại khoan.
Sác nhi nhứt chỉ, hiệp tan khôn lường [26].

Mạch Kết, lai khứ vô thường.
Hưỡn nhi nhứt chỉ, tỏ tường đinh ninh [27].

Mạch Đại (Đợi) chỉ tán phân minh.
Trước sao sau vậy, xem h́nh chẳng sai [28].

Ta nay mách bảo ai ai.
Hai mươi bảy mạch, các loài khác nhau.

B/ CÁC MẠCH CHỦ BỆNH:
Ấy là thể trạng định ra.
Lại xem chủ bệnh, lược ra mọi đường.

Mạch Phù hỏa vượng chủ dương.
Với loài khí thoát huyết vong phong hàn [29],

Mạch Trầm đ́nh trệ âm hàn.
Khí ngưng thủy súc, luận bàn cho xong [30].

Mạch Tŕ đích thị hàn trong.
Chẳng lưng thời bụng, tâm hung đau thường [31].

Mạch Sác nhiệt thạnh sung dương.
Sác mà vô lực, tỏ tường Dương hư[32].

Mạch Hoạt đàm ẩm có dư.
Cùng là thực tích, kiêm chư nhâm thần [33].

Mạch Sắc tinh huyết bệnh nhân.
Hư hao ửng bế, thân h́nh khô khan[34].

Mạch Hư nguyên khí hư hao.
Một là thương thử, một vào loại hư[35].

Mạch Thực tà nhiệt có dư.
Nói cuồng lại bế, âm hư rơ ràng[36].

Mạch Trường là bệnh phản thường.
Vị thiệt can cường, ấy chứng nhât tăng[37].

Mạch Đoản chánh khí bất hằng
Phù là huyết sáp, Trầm rằng trướng đông[38].

Mạch Hồng dương thạnh âm vong,
Tư âm giáng hỏa hoặc dùng phát dương[39].

Mạch Vi khí huyết đều thương.
Nam thường lao bịnh, nữ thường đái băng [40].

Mạch Khẩn lạnh đau trằn trằn.
Phù th́ phát tán, Trầm rằng ôn kinh[41].

Mạch Hoăn thịnh vệ suy vinh.
Lâu bệnh th́ lành, bệnh mới ắt hư [42].

Mạch Khâu huyết thoát, huyết hư.
Trên th́ thổ huyết, dưới như băng hồng [43].

Mạch Huyền đàm ẩm chứa trong.
Thổ suy, mộc vượng khá hiềm sán đông[44].

Mạch Cách tinh huyết đều vong.
Nữ th́ băng đái, trai pḥng mộng di[45].

Mạch Lao lư thực hữu dư.
Khí ngưng hỏa uất, tán trừ rất hay[46].

Mạch Nhu bởi tại thấp truyền.
Tủy hải đơn điền, hỏa án suy vi[47].

Mạch Nhược âm dương đều suy.
Điều Vinh dưỡng Vệ chân nguyên phục hoàn[48]

Mạch Tán, tướng hỏa hầu tàn.
Thấy nơi xích bộ, gian nan xiết ǵ[49].

Mạch Tế lăo nhược tương nghi.
Thổ nục, huyết lậu thiệt th́ mới nên [50].

Mạch Phục thực uất thấp hàn.
Phàm các bệnh dữ, khôn nàn chớ lo[51].

Mạch Động khí huyết bất đồng.
Chủ kinh, chủ thống luận cho tỏ tường[52].

Mạch Xúc đa nhiệt thiểu hàn,
Bệnh thời suyễn khái cuồng ban đă đành[53].

Mạch Kết khí uất, huyết ngưng.
Tích tụ hà trừng, trên dưới chẳng thông[54].

Mạch Đợi (đại) một tạng đă vong
Dẫu Ông Biển Thước khôn ḥng cứu cho[55].

Mấy lời thốt đặng t́nh thô.
Bệnh nào mạch nấy luận cho tỏ tường.
Ví dầu trí tuệ khôn lường.
Trăm suy ngàn tưởng mấy đường cũng nên


C/ MẠCH THUẬN NGHỊCH:

Lại xem bệnh nhiệt mạch hàn.
Bệnh hàn mạch nhiệt, phản thường mới nguy.[56]

Với người h́nh thạnh mạch suy.
H́nh suy mạch thạnh, ắt th́ chẳng nên[57].

Bệnh dưới, mạch thạnh ở trên.
Bệnh trên mạch dưới phép bèn bảo cho.
Trên thạnh: Làm giáng làm thâu[58]

Dưới thạnh: Thăng cử, hiệu thâu tức th́[59].

Bệnh trong mạch nổi ngoài b́.
Bệnh ngoài mạch nội, phép th́ càng xinh [60].

Bệnh trong ôn tạng, ôn kinh.
Thiếu gia thâu liễm, Vệ Vinh điều ḥa[61].

Mạch bèn chẳng có Phù ra.
Ấy là phép tả, ắt ḥa được thay[62],

C̣n như bệnh ở bên ngoài.
Mạch th́ tại nội chớ hoài giáng thâu[63].

Phép dương ôn tán, thăng phù.
Trước là pḥ chính, sau khu dâm ta[64].

Bệnh ngoài, mạch ngoài ở da,
Ấy là ngoại cảm th́ ta khu trư[65],

Bệnh nội, mạch nội bây chừ.
Nội thương bệnh ấy bổ hư làm đầu[66].

Bộ Thốn riêng có chớ âu,
Phép dương cho ói, mới hầu được yên[67].

Bộ Xích riêng có liên miên.
Là hư căn bổn, phép nên pḥ tŕ,[68]

Lăo nhược, mạch Nhược phải th́.
Trai trẻ mạch mạnh, ấy là trường sanh.
Con trai Thốn thạnh là b́nh.
Con gái Xích thạnh, huyền xinh như là.


D/ MẠCH TIỂU NHI:

Này mạch con trẻ kể ra.
Tám, chín chí nóng, năm là lạnh thay.
Ba bộ xem một ngón tay.
Thốn, Quan cùng Xích đều bày ở trong.
Tiểu nhi khí huyết chưa sung.
Mạch là đại khái, xét cùng Tam quan[69].

Nam tả, nữ hữu sẽ toan.
Xem nơi hổ khẩu chỉ tay rơ ràng.
Ngón trỏ trong mỗi bàn tay.
Phong quan ở dưới, giữa là Khí quan.
Ngón trên chót gọi Mạng quan.
Xem chỉ cho rơ: Đỏ, đen, xanh, hồng.
Xanh là thiệt chứng cảm phong.
Đỏ sậm là nhiệt, lợt hồng là hư.
Chỉ chạy áp móng rất nguy.
Mười đứa cứu một hoặc th́ cũng không.


E/ MẠCH NỮ NHI & THAI NGHÉN:

Thai mạch Trầm, Hoạt kèm Hồng.
Tả lớn hơn hữu, sổ ḷng con trai.
Hữu lớn hơn tả, nữ thai.
Tả hữu đều lớn, song thai rơ ràng.
Thai mạch Khâu Sác chớ ḥng.
Ba, năm bảy tháng, khá pḥng lậu thai.
Tám, chín tháng Trầm Tế lai.
Thai hư bán sản, ắc thai chẳng toàn.
Gần đẻ Phù Hồng chẳng nên.
Ấy là non sản t́m miền tiên du.
Lâm bồn, Trầm Phục chớ lo.
Thánh hiền đă dạy mạch đồ ly kinh.
Ấy là dễ sản, dễ sinh.
Mà mạch sản hậu, hoà b́nh mới nên.
Trầm Vi phụ cốt miên miên.
Thiên vạn sản hậu chẳng nên Phù Hồng.
Ví dầu Phù Đại mà không.
Bổ âm, bổ huyết cư trung mà dùng.
Tán huyết gia vị xuyên khung.
Hồng hoa, Ngưu tất chớ dùng làm chi.
Con gái mạch Sắc tường trị.
Huyết khô, huyết ít, ắt th́ mất kinh.
Có kinh đau bụng, đau lưng.
Huyết th́ đen xấu, trong ḿnh chẳng yên.
Có thai, thai cũng chẳng nên.
Có chồng, chồng cũng ghen tương chẳng ḥa.
Thốn Hồng, tán loạn càng ǵa.
Một là dâm đảng, một là dương can[70].

Bộ Xích Trầm Hoạt mới nên.
Hai tay mạch Huyền, can khí có dư.
Tức hông xót ruột ợ chua.
Tánh thường hay giận, hay lo trăm đường.
V́ chứng bệnh ở nhị dương.
Trong kinh đă dạy, bởi thương Tâm Tỳ.
Nữ nhi nào khác nam nhi.
Khác v́ thai sản, với kỳ nguyệt
Ta nay thô thiển ư t́nh,
Nôm na Quốc ngữ, đặt thành một thiên.

[1] Xem xét những phần quan trọng viết về mạch lư trong sách y học, để làm thơ bằng quốc ngữ.

[2] Mạch Phù: Phù là nổi lên trên. Mạch nổi, nhẹ như lông ngổng, ấn tay xuống thấy sức yếu.

[3] Mạch Trầm: Trầm là ch́m. Ấn mạnh tay xuống mới thấy mạch, nâng tay lên th́ không thấy ǵ.

[4] Mạch Tŕ: Tŕ là chậm chạp. Mỗi hơi thở mạch nhảy 3 lần trở xuống (Mạch nhảy < 60 lần/phút),

[5] Mạch Sác: Mạch nhảy 6 lần trở lên (> 90lần/phút. (Sác là luôn luôn).

[6] Mạch Hoạt: Mạch đi lanh lẹ, trơn tru như hạt châu lăn trên mâm. (Hoạt là trơn tru).

[7] Mạch Sắc c̣n gọi Sáp. Mạch nhỏ mà chậm, đi lại khó khăn, mạch nhảy khi năm khi ba, không đều, xem xét khó khăn. (Sắc là rít)

[8] Mạch Hư: Hư là trống rỗng. An tay xuống không thấy ǵ, nâng tay lên thấy mạch chậm, lớn, vô lực, xem không rơ ràng.

[9] Mạch Thực: Ấn tay xuống, nâng tay lên đều có sức. (Thực là đầy đủ)

[10] Mạch Trường: Mạch có sức, lớn, dài, thân mạch tràn qua vị trí của nó. Thấy rơ đầu mạch, đuôi mạch. (Trường là dài)

[11] Mạch Đoăn: Đoăn là ngắn, không thấy được đầy đủ ở toàn bộ vị trí. Mạch Đoăn rơ ràng hơn mạch Vi

[12] Mạch Hồng: Mạch nổi đầy dưới tay. Mạch đến cuồn cuộn như làn sóng, khi đến th́ mạnh, khi đi kém dần, như nước sôi.

[13] Mạch Vi: Mạch không có sức, rất nhỏ, mềm, như có như không. Lờ mờ không rơ ràng. (Vi là nhỏ).

[14] Mạch Khẩn: Chạm tay vào thấy dáng khẩn trương, có sức, như h́nh vặn dây thừng. (khẩn là gấp)

[15] Mạch Hoăn: Mạch đến 4 lần, khoan thai, ḥa hoăn. (Hoăn la từ từ)

[16] Mạch Khâu: Mạch nổi lớn nhưng rỗng, như ấn vào cộng hành.

[17] Mạch Huyền: Mạch căng thẳng, mà dài, như dây cung, như dây đờn.

[18] Mạch Cách: Mạch nổi lớn, hơi nhanh, cứng rắn trên bề mặt, nhưng rỗng ở bên trong, như sờ vào da trống. (Cách là da trống).

[19] Mạch Lao: Ấn nặng tay xuống thấy mạch mạnh, lớn, căng, dài. Mạch ch́m mà rắn. (Lao là vững bền)

[20] Mạch Nhu: Mạch nổi mà rất mềm, rỗng, nhỏ. Như lụa ngâm trong nước. Nhẹ tay mới thấy, nhưng rơ ràng hơn mạch Vi.(Nhu là mềm.yếu)

[21] Mạch Nhược: Ch́m, nhỏ và rất mềm. Ấn vào mạch như muốn mất,vô lực. (Nhược là yếu ớt)

[22] Mạch Tán: Mạch nổi tán loạn. Nhịp đập mềm, không đều, sóng mạch không rắn, không rơ ràng như hoa rơi (Tán là tan ra).

[23] Mạch Tế: Ấn tay xuống, thấy mạch rơ, mềm, nhỏ, như tóc, như tơ, đi sát gân xương. (Tế là nhỏ nhoi)

[24] Mạch Phục: Mạch đi ch́m rất sâu, ấn thật mạnh tay gần sát xương mới thấy mạch. (Phục là ẩn núp)

[25] Mạch Động: Mạch hơi nhanh, mạnh, mạch ngắn như hạt đậu lăn; chỉ thấy ở bộ Quan. (Động là chuyễn động).

[26] Mạch Xúc: Mạch đi nhanh (> 5 lần) mà có lúc ngừng, nhưng ngừng không theo một số nhất định. (Xúc là thúc dục)

[27] Mạch Kết: Mạch đi chậm, ḥa hoăn, có lúc ngừng, nhưng ngừng không theo một số nhất định. (Kết là thắt buộc lại).

[28] Mạch Đợi: Mạch không có sức, lúc nhanh lúc chậm, có lúc ngừng đập theo một số nhất định. (Đợi là thay đổi)

*CÁC MẠCH CHỦ BỆNH:

[29] Mạch Phù có lực (Hồng, Hoạt, Trường, Khẩn) là Dương chứng, Biểu chứng. Phù vô lực (Hư, Nhu, Tán, Vi) là phong, là âm hư, là thiếu máu..

[30] Mạch Trầm có lực: Chủ lư thực. Thực chứng th́ nóng dử dội, nhiệt triều, hôn mê, phiền táo, khát nước.. Trầm thực (Lao) phải hạ.Trầm khẩn là hàn tà bao bó. Trầm sác là thấp nhiệt. Trầm vô lực (Vi, Tế, Nhược) là lư hư, phải dùng ôn bổ bằng Sâm, phụ, càn cương.

[31] Mạch Tŕ: Chủ hư hàn, có đau. Bệnh ở tạng. Phù Tŕ là biểu hàn; Trầm Tŕ là lư hàn. Trầm Tŕ quá là âm thoát dương cô.

[32] Mạch Sác: Chủ chứng nhiệt, là táo, là dương, là bệnh thuộc phủ. Sác vô lực là dương hư. Nội Kinh nói "Phú sác lắm, càng hư lắm¿.

[33] Hoạt: Huyết nhiều mà khí ít. Bệnh thuộc thực. Mạch hoạt nói lên đàm ở hệ thống hô hấp hay chứng thực tích ở hệ tiêu hoá. Phụ nữ mất kinh mà có mạch hoạt là có thai. (Kiêm chư nhâm thần: Coi chừng có thai}.

[34] Mạch Sắc: Chủ huyết hư, tinh huyết bị thương tổn, thiếu máu, người gầy, suy nhược; cũng chủ hàn thấp. Trầm Sắc là huyết ứ.

[35] Mạch Hư : Chứng khí huyết đều hư, kinh sợ. Phù Hư là thương thử. Hư Sác là âm hư. Hư Tŕ là dương hư.

[36] Mạch thực: Chủ thực nhiệt. Nếu tả nhiệt mà nhiệt không lui, phải nghỉ do âm hư. Nhiệt làm thương âm.
(Xem tiếp bên cột 2)
[37] Mạch Trường: Chủ dương khí thịnh. Da dày xót, lưởi khô, là bệnh thế đang tăng.

[38] Mạch Đoăn: Khí uất tắc, thương tổn, hư suy. Đoăn đi phù là huyết trệ. Đoăn đi trầm th́ bụng trướng, đau.

[39] Mạch Hồng: Nhiệt thịnh, dương thạnh âm vong. Phép chữa phải tư âm giáng hỏa hay thăng dương tán hỏa.

[40] Mạch Vi: Chủ âm huyết, dương khí đều hư, lao sái, băng huyết.

[41] Mạch Khẩn: Chứng hàn bế, chứng đau. Phù khẩn tà khí ở biểu th́ phát tán. Trầm khẩn: bụng dưới bi hàn bế, phải ôn ấm kinh huyết.

[42] Mạch Hoăn: Hoăn mà hoạt đại là biểu thực, Vinh khí bất túc, vệ khí hữu dư, cảm phong hàn. Hoăn mà Trầm là khí huyết kém, thấp trệ. Đau lâu mà có mạch hoăn th́ bệnh sắp lành, Chủ chứng thấp và ty hư.

[43] Mạch Khâu: Chủ huyết hư, mất máu, huyết bị thương tổn như thổ huyết, làm băng..

[44] Mạch Huyền: Chủ chứng Can mộc vượng, tỳ thổ suy sinh đàm ẩm, co rút.. Coi chừng có sán khí, đau nhức.

[45] Mạch Cách: Tinh huyết hư tổn, Gái th́ băng huyết, con trai di tinh, mộng tinh.

[46] Mạch Lao: Chứng hàn thực, khí đầy xốc, sán khí, hàn tà phạm tỳ vị.

[47] Mạch Nhu: Chủ chứng ngoại thấp, chứng khí suy hư.

[48] Mạch Nhược: Khí huyết đều hư.

[49] Mạch Tán: Chủ nguyên khí ly tán, chân khí muốn tuyệt. Người có bộ hữu xích (Tướng hỏa) mà mạch tán th́ rất nguy.

[50] Mạch Tế: Chủ khí huyết hư. Người ǵa có mạch này th́ hợp. Chủ nhiệt kết và lư hư. Người bị thổ huyết, ho ra máu có mạch này th́ hợp.

[51] Mạch Phục: Chứng hàn khí bế tụ, chứng quyết nghịch, bụng dưới đau dử do thực tích, dương suy. Bạo bịnh (bịnh th́nh ĺnh) mà mạch Phục do độc bệnh tích tụ, đàm ẩm không thông, nếu cho Thổ hay Hạ sẽ khỏi.

[52] Mạch Động: Khí huyết găng thịnh, có đau đớn, kinh sợ. Hư lao, băng huyết.

[53] Mạch Xúc: Chủ dương tà bị hảm bên trong, Mạch Xúc có lực là suyễn, đàm ẩm, khí huyết đ́nh trệ.

[54] Mạch Kết: Chủ khí huyết uất kết, bực tức, đau nhức, trừng hà, tích tụ.

[55] Mạch Đợi chủ khí của tạng qúa suy,tuyệt, Kinh mạch bị ngăn trở do chứng sợ hải, do té ngă. Đều khó chữa.

[56] Mạch không theo chứng, chứng không theo mạch, bệnh hàn gỉa nhiệt, bệnh nhiệt gỉa hàn, đều là bệnh khó trị

[57] Mạch và h́nh thể không đồng nhau, cũng khó chữa.

[58] Thượng thực hạ hư sinh ho, suyễn, tức ngực..phải liễm giáng khí.

[59] Thượng hư hạ thực sinh SA TRỰC TRÀNG, TRĨ, SA DẠ CON, KIẾT LỴ ¿phải thăng đề thanh khí: Như Bổ trung, Sài cát giải cơ,Thăng ma cát căn¿

[60] Bệnh nội thương mà có mạch ngoại cảm (Phù, Đại, Hoat, Sác) hay bệnh ngoại cảm lục dậm, ôn bệnh mà mạch đi của nội thương (Trầm, Tiểu, Sắc, Tŕ), đều là bệnh khó trị, phép chữa phải hay mới được.

[61] Bệnh nội thương ở tạng, ở kinh, phải hoà giải thiếu dương,hay dùng phép thâu, liễm để điều hoà khí huyết.

[62] Bệnh ngoại cảm nhưng tà khí đă bị liễm vào trong, mạch trầm hữu lực của Dương minh chứng, không phải nội thương, phải dùng tả hạ.

[63]Bệnh ngoại cảm, lục dâm đă liễm vào bên trong, hay ôn bệnh mới mắc, mạch Trầm hữu lực, nên dùng phép ḥa giải, không được làm giáng thâu,tà sẽ bị bế, không giải được.

[64] Ôn tán: Tân ôn giải biểu. Thăng phù: đưa dương khí đi lên. Đầu tiên là bổ chính khí, rồi sau mới trừ tà khí.

[65] Ngoại cảm biểu chứng, có mạch: Phù, Đại, Hoạt, Sác. Phải trừ tà

[66] Bệnh nội thương, có mạch Trầm, Tiểu, Sắc, Tŕ . Phải bổ hư.

[67] Bộ thốn có mạch mà bộ xích không có mạch là chứng bụng đày do thương thực hay đàm uất, phải cho thổ (ói) ngay.

[68] Chỉ bộ xích có mạch là nguyên khí hư suy, phải bổ nguyên dương.

[69] Tam quan: Phong quan, khí quan, mạng quan.

[70] Dương can: Can khí xung thịnh.

[*] Nhị dương: Theo thuyết vận khí trong Nội Kinh th́ Thiếu dương là nhứt dương; Dương minh là nhị dương; Thái dương là tam dương. Quyết âm là nhứt âm; Thiếu âm là nhị âm; Thái âm là tam âm.

- Lương y Trần Sỹ dịch thuật và Chú giải.
- Nhà thuốc Đông y Nguyên Hùng Đường.
- 8 Lê Hồng Phong, Tp Phan Thiết, tỉnh B́nh Thuận.
- ĐT: 0988170818 - 0623823505.
- Email: Sy.nguyenhungbt.tran@gmail.com

 
Reply with a quote
Replied by KHANG TƯỜNG (Hội Viên)
on 2013-09-16 23:48:11.0
KT kính chào các đồng nghiệp và các bạn trên diễn đàn!
Trong bài LƯ SƠN MẠCH CA mà KT vừa đăng lên hôm qua, là bản dịch sưu tầm có bổ sung và chỉnh sửa vài chỗ. Với cố gắng thể hiện bản dịch tương tự một bài ca phú theo bản gốc Hán Việt, nên không tránh khỏi vài chỗ c̣n gượng ép, chưa hoàn toàn thoát ư trong dịch thuật. Mong các bạn chỉ giáo thêm.
Hôm nay KT xin đính chính vài chỗ chưa chuẩn trong bài dịch đă đăng lên.Chân thành cáo lỗi cùng Quư vị đồng môn.

Từ ḍng đầu tiên " Xưa từng nói bệnh cơ màu nghiệm..." đến ḍng 25-26 "Dương bộ mà Âm mạch hựu lai,
Dương bạt Âm cung nguy cấp."

Hai ḍng này xin sửa lại như sau:

"Âm bộ mà Dương mạch hựu lai,
Dương bức Âm cung nên biết. "

V́ câu phú trong bản Hán Việt là:

" Dương bộ kiến Âm mạch chí,
Âm thừa Dương vị tu tri.
Âm bộ kiến Dương mạch lai,
Dương bức Âm cung khả thức."
Chân thành cảm ơn!
 
Reply with a quote
Replied by KHANG TƯỜNG (Hội Viên)
on 2013-09-17 00:01:51.0
KT cảm ơn Bác justme đă bổ sung ư kiến, điều này rất tốt cho các bạn đă và đang học Đông Y có thêm kiến thức bổ ích.
Mong các bạn đồng môn tham gia góp ư cho diễn đàn ngày càng mở rộng, phong phú, dồi dào... nền học thuật của Đông Y Việt Nam.
Chân thành cảm ơn!
 
Reply with a quote


<< Trả Lời >>

Nội Quy | Góp Ý | © 2009 - 2022 yhoccotruyen.org