Trang Chính

  Dược Vị

  Toa Thuốc

  Diễn Đàn

  Đăng Nhập

  Đăng Ký

Diễn đàn >> Kiến Thức YHCT >>

<< Đăng Chủ Đề Mới >>
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-12-11 03:49:56
Từ điều 131 đến 137
131 结胸者,项亦强,如柔痓状。下之则和, 宜大陷胸丸方。C139
131 Kết hung giả, hạng diệc cường, như nhu chí trạng. Hạ chi tắc hoà, nghi Đại hăm hung hoàn phương. C139
Phương Đại hăm hung hoàn
Kết hung hạng cường như nhu kinh
Hạ chi tắc hoà đại hăm hung
Bán thăng Hạnh Đ́nh Tiêu bát Đại
Hạnh nhân ngao hắc tái ngao Đ́nh
Đại Đ́nh đảo si mang Hạnh nghiên
Hoà tán thủ như đạn hoàn dụng
Biệt đảo Cam toại nhất tiền chuỷ
Bạch mật nhị hợp thuỷ nhị thăng
Đốn phục nhất thăng nhất túc hạ
Bất hạ tái phục kiến hạ đ́nh
Đại hoàng nửa cân, Đ́nh lịch nửa thăng, sao Mang tiêu, Hạnh nhân đều nửa thang, bỏ vỏ và đầu nhọn, sao đen 4 vị thuốc trên, bỏ vào sàng, lấy Hạnh nhân, Mang tiêu nghiền nhuyễn như dầu mỡ, làm thành hoàn như viên đạn, đảo riêng 1 tiền Cam toại, dùng hai hợp mật ong trắng, 2 thăng nước, nấu c̣n lại 1 thăng, uống hết lúc thuốc c̣n ấm, một đêm sẽ hạ, nếu không hạ th́ tiếp tục uống, đến khi hạ là được, cấm kỵ như dược pháp.
Đây là đoạn văn giảng về cách trị liệu và phân loại chứng kết hung. “Kết hung giả, hạng diệc cường”(结胸者,项亦强) Chứng kết hung gáy cũng cứng “Như nhu chí trạng. Hạ chi tắc hoà, nghi Đại hăm hung hoàn.” (如柔痓状,下之 则和,宜大陷胸丸。) Đoạn văn này thảo luận chứng trạng và trị liệu chứng kết hung bệnh tà c̣n ở vị trí cao. Kết hung chính là nhiệt kết với thuỷ, bệnh tà Thái dương vào đến sát phần lư và ngưng tụ hỗ tương với thuỷ ở trong lư, đă cấu thành bệnh chứng kết hung, nhưng bộ vị ngưng kết của nhiệt và thuỷ có cao và thấp khác nhau.
“Kết hung giả, hạng diệc cường” ( 结胸者,项亦强), chứng kết hung tất nhiên dưới tim đầy cứng và đau, “项亦强”(Hạng diệc cường), gáy cũng bị cứng, cứng ở mức độ nào? Có phải “cường” (强) của “太阳之为病,脉浮,头项强痛而恶寒”(Thái dương chi vi bệnh, mạch phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn) ? Không phải như vậy mà có một chút dữ dội, “如柔痓状”(như nhu chí trạng), giống như nhu kính. Ở bản văn này chúng ta gọi là “nhu chí”(柔痓), bản của họ Triệu gọi là “nhu kính”(柔痉), cả hai có ư tứ giống nhau, chính là kính bệnh. Kính bệnh phân làm hai loại, một loại là cương kính, một loại là nhu kính. “kính bệnh hạng cường bối phản trương”(痉病项强背反张) kính bệnh cứng gáy lưng như cây cung kéo ngược dây cung, chính là đặc điểm của bệnh. “Hữu hăn vi nhu vô hăn cương”(有汗为柔无汗刚), có mồ hôi gọi là chứng nhu kính, không có mồi hôi gọi là chứng cương kính. Chứng kết hung, dưới tim cứng đầy và đau, cứng gáy, có thể ngửa không thể cúi, đồng thời xuất mồ hôi, giống như “Nhu kính trạng”( 柔痉状), Tại sao như thế? V́ nhiệt kết với thuỷ lệch lên trên, v́ thế chứng kết hung cũng lệch lên trên, ảnh hưởng kinh mạch ở lưng và gáy, v́ thế bệnh nhân có thể ngửa mà không thể cúi. Dương khí đă hăm vào trong, lệch về phía trên, nhiệt bốc hơi, v́ thế tự xuất mồ hôi. Nhiệt đă ngưng tụ với thuỷ, tân dịch không vận chuyển, kinh mạch ở lưng cổ không được nuôi dưỡng, lưng gáy g̣ bó bất hoà, nói: “Hạ chi tắc hoà”(下之则和), được dùng Đại hăm hung hoàn tả hạ nhiệt và thuỷ ngưng tụ. “Hoà”(和), cũng chỉ chữ “Kính”( 痉) trong “Nhu kính”( 柔痉), v́ kính là đă bất hoà, v́ kính chính là kinh mạch tụ tập, “Hạng diệc cường”(项亦强) gáy cũng đă cứng, “Cường”(强) chính là bề ngoài(diện mạo) của bất hoà, đă dùng Đại hăm hung hoàn tả hạ khu trừ nhiệt và thuỷ, tân dịch có thể lưu thông dễ dàng, kinh mạch được nuôi dưỡng, lưng gáy không bị cứng, chúng được nhu hoà (mềm mại không g̣ bó cang cứng) chứng cứng đầy và đau ở dưới tim (tâm hạ) cũng hết.
Phương thang Đại hăm hung hoàn yêu cầu từ lưng trở xuống. Đại hăm hung hoàn với cơ sở là Đại hăm hung thang, Đại hoàng, Mang tiêu, Cam toại là Đại hăm hung thang. Đại hoàng đắng lạnh, có khả năng tiết nhiệt kết. Đại hoàng và Hoàng liên Hoàng cầm có những điểm khác biệt nào? V́ Đại hoàng có thể tả hạ nhiệt kết, có tác dụng phá kết, v́ thế nó có thể tẩy rửa tràng vị, thay cũ đổi mới (thôi trần chí tân). Vấn đề hiện tại là nhiệt kết với thuỷ, v́ thế dùng vị Đại hoàng để phá nhiệt kết. Mang tiêu là vị thuốc mặn và lạnh, có tác dụng nhuyễn kiên (làm mềm) tán kết, v́ thế lực của nhiệt kết với thuỷ rất kiên cố bền vững, chỉ dùng Đại hoàng th́ không hiệu quả, nên cần phối với Mang tiêu. Đại hoàng và Mang tiêu chính là hai vị thuốc được dùng để điều trị chứng tà nhiệt kết tụ kiên cố, v́ thế thang Đại thừa khí dùng hai vị này, Đại hăm hung thang, Đại hăm hung hoàn đều sử dụng chúng. Cam toại là vị thuốc trừ thuỷ tà mạnh mẽ. “Đại kích Nguyên hoa Cam toại b́nh” (大戟芫花甘遂平), dưới đây là so sánh của 3 vị thuốc, tác dụng tả thuỷ của Cam toại mạnh hơn hai vị thuốc kia. Kết hợp ba vị thuốc lại, tương tu tương thành (hỗ trợ nhau) có thể tiết thuỷ nhiệt ngưng kết, tẩy rửa thuỷ tà, đưa ra bên ngoài cơ thể, cho nên ba vị này là phương Đại hăm hung thang.
Đại hăm hung hoàn với cơ sở là Đại hăm hung thang, gia thêm Đ́nh lịch, Hạnh nhân, tại sao ra thêm hai vị này? V́ thuỷ nhiệt ngưng kết ở vị trí cao, không đến vị trí tâm hạ, bao quát lồng ngực, thậm chí cả lưng và gáy, ngực, cạnh sườn đầy cứng và đau, có thể xuất hiện chứng trạng hơi thở bị ngắn, v́ thế phải lợi hung cách, tiết phế khí (phế khí thoát ra).
Phế khí thuận lợi, khí hung cách thuận lợi, lại gia thêm Đại hoàng, Mang tiêu, Cam toại để khu trừ bệnh tà, như thế có thể tẩy rửa hết thuỷ tà và thuỷ nhiệt. Vị Đ́nh lịch có thể tiết phế, vị Hạnh nhân có tác dụng tạo thuận lợi cho phế, mà lợi phế cũng là thuận lợi cho ngực, v́ thế có tác dụng trị thuỷ tà trong ngực.
Đại hăm hung hoàn là phương thang có tác dụng hạ lợi mạnh mẽ (tuấn lợi chi dược), lực lượng công hạ rất mạnh. V́ sao? Nếu không hạ lợi mạnh, th́ làm sao có thể hạ lợi được sự ngưng kết của thuỷ nhiệt?
Chúng ta cùng xem xét tễ lượng của phương thang, học lư pháp phương dược, nhất định phải xem xét tễ lượng.
“Thượng tứ vị, đảo si nhị vị, nội Hạnh nhân, Mang tiêu, hợp nghiền như chi, hoà tán, thủ như đạn hoàn nhất mai, biệt đảo Cam toại nhất tiền chuỷ, bạch mật nhị hợp, thuỷ nhị thăng, chử thủ nhất thăng, ôn đốn phục chi, nhất túc nhưng hạ, như bất hạ, canh phục, thủ hạ vi hiệu, cấm như dược pháp.” Những vị thuốc này, làm hoàn như viên đạn, là một loại vũ khí, làm hoàn to bằng viên đạn, mỗi lần uống 1 hoàn. Dùng 1 th́a bột Cam toại, sau đó c̣n dùng “Bạch mật nhị hợp, thuỷ nhị thăng, chử thủ nhất thăng, ôn đốn phục chi” (hai hợp bạch mật, 2 thăng nước, nấu c̣n 1 thăng, uống hết lúc thuốc c̣n ấm) Đây là ư nói về phương pháp uống Đại hăm hung hoàn. “Ôn” có ư là thuốc không nên uống nguội. Một lần uống hết một hoàn, uống với nước thuốc và cả bă thuốc. Thuốc này tính mănh liệt, nhưng lượng thuốc khá nhỏ, lượng chỉ bằng viên đạn, lượng Cam toại là nhất tiền chuỷ. Tiền chuỷ là đơn vị đo lường thời cổ đại gọi là phương thốn chuỷ. “Bạch mật nhị hợp”, gia thêm mật ong màu trắng, mật có loại màu trắng, loại màu vàng, là loại mật ong màu trắng, “Thuỷ nhị thăng, chử thủ nhất thăng, ôn đốn phục chi”(Hai thăng nước, nấu c̣n một thăng, uống hết 1 lần lúc thuốc c̣n ấm). Ta thấy, phương thang này có tác dụng tả hạ mạnh mẽ, nhưng lượng thuốc khá ít, lại gia thêm mật ong vị ngọt, vị ngọt có tính hoà hoăn, cam dĩ hoăn chi, khiến tác dụng tả hạ của Đại hoàng, Mang tiêu giảm bớt tính mănh liệt, không nhanh không cấp bách, v́ thế “一宿乃下” (nhất túc nhưng hạ) tả hạ sau một đêm, mất một đêm để có tác dụng tả hạ.
Điều này có những ư nghĩa như sau: Một là bệnh đang ở trên, không nên tả hạ cấp bách. Khi bệnh ở phần trên th́ “项亦强,如柔痉状” (Hạng diệc cường, như nhu kính trạng), tà khí ở trên cao nếu tả hạ quá nhanh sẽ có vấn đề bệnh tà c̣n sót lại, tà khí không đào thải triệt để.
Không thể tả hạ quá nhanh, lượng thuốc sử dụng cần phải nhỏ, nếu dùng lượng thuốc lớn, tác dụng tả hạ sẽ nhanh; Đồng thời lại gia thêm mật ong, làm chậm sức mạnh của thuốc, phát huy tác dụng tả hạ ở thượng tiêu, từ đó đạt được mục đích trị liệu. Trung y điều trị bệnh ở thượng tiêu, thường dùng phương pháp gia thêm vị Cam thảo, ở đây không dùng Cam thảo, v́ vị Cam thảo và vị Cam toại phản nhau, cho nên dùng Bạch mật, kéo dài thời gian tác dụng của thuốc ở thượng tiêu để điều trị thuỷ tà ở vị trí cao trên thượng tiêu. “药虽峻而用在缓”(Dược tuy tuấn nhi dụng tại hoăn), thuốc tuy có tác dụng tả hạ mạnh mẽ, mà phương pháp sử dụng lại khá hoà hoăn. Tại sao? V́ uống một hoàn thuốc lớn, lại gia thêm Bạch mật, biến tác dụng công hạ mạnh mẽ thành công hạ hoà hoăn, chính là một sách lược để điều trị thuỷ nhiệt ngưng kết ở thượng tiêu. “Như bất hạ” v́ lượng thuốc quá ít, nếu không tả hạ, “Canh phục”( 更服), tiếp tục uống, với tả hạ là mức độ, “Thủ hạ vi hiệu”( 取下为效) tả hạ là hiệu quả trị liệu, “Hạ chi tắc hoà”( 下之则和), khi đă tả hạ, bệnh cứng lưng gáy sẽ tự hết. Đây là phương thuốc hàng đầu dùng trị chứng kết hung, có tên là Đại hăm hung hoàn. V́ sao gọi là “hăm hung”? Tên này rất đặc biệt, chữ “hung” (lồng ngực) chính là bệnh tà ở vị trí cao, lúc này việc điều trị chính là “hăm hạ dĩ b́nh chi” (陷下以平之), dùng chữ “hăm” chính là dùng ư nghĩa hăm hạ bệnh tà ở vị trí cao, để b́nh tà khí.
132结胸证,其脉浮大者,不可下,下之则死。C140
133结胸证悉具,烦躁者,亦死。 C141
132 Kết hung chứng, kỳ mạch phù đại giả, bất khả hạ, hạ chi tắc tử. C140
133 Kết hung chứng tất cụ, phiền táo giả, diệc tử. C141
Hai điều này thảo luận về vấn đề tiên lượng của chứng kết hung, hai điều này cần phải nhận thức cùng nhau mới có ư nghĩa, chữ “diệc” là nối tiếp của phần trên, ư của “Hạ chi tắc tử” (下之则死), tiếp nối từ câu trên.
Chứng kết hung, thấy mạch phù đại, mạch phù là bệnh tà tại biểu, chưa hoàn toàn nhập lư, tuy chính là đă kết hung, v́ tà của chứng kết hung từ Thái dương biểu đi vào, “Bệnh phát vu dương, nhi phản hạ chi, nhiệt nhập nhân tác kết hung”( 病发于阳,而反下之,热入因作结胸), mạch phù phản ảnh tà khí ở biểu. Mạch “大”(đại) cho thấy lư không thực. Như vậy, tuy có bị đau nhưng mạch chứng không phù hợp (ăn khớp), th́ không thể dùng phép công hạ, cấm dùng Đại hăm hung thang. Nếu như ngộ hạ (hạ nhầm) sẽ dẫn tà nhập lư, khiến tà của biểu xâm nhập vào trong (lư), trước tiên chính khí bị hư tổn, tà mạnh chính suy, v́ thế “Hạ chi tắc tử”( 下之则死), công hạ th́ chết.
Trị bệnh gồm có hai phương diện, một là theo tà khí, hai là theo chính khí. Chính khí và tà khí có quan hệ tiêu bản (gốc ngọn), v́ thế chỉ sợ chính khí hư suy. Bệnh tạng kết v́ sao khó chữa? Là chính khí hư nhược, chứng kết hung hạ nhầm, chính khí bị hư tổn trước tiên, tà khí lại kết, là vấn đề không tốt và nguy hiểm. Đây là đoạn văn thuyết minh chứng kết hung không được dùng phép hạ quá sớm, khi dùng Đại hăm hung thang hoặc Đại hăm hung hoàn, mạch phải là trầm khẩn, mạch trầm chủ lư, khẩn chủ thực, mạch phù đại và mạch trầm khẩn là tương phản (trái nghịch nhau), mạch phù đại là chính khí chưa hư tổn, tà khí chưa nhập lư, vị thế dùng phép hạ lúc này là quá sớm, là rất nguy hiểm.
Như vậy người ta lại sản sinh một suy nghĩ “结胸病,下之太早,可就死了,这个问题太严重了”(Kết hung bệnh, hạ chi thái tảo, khả tựu tử liễu, giá cá vấn đề thái nghiêm trọng liễu) Bệnh kết hung, nếu tả hạ quá sớm, có thể tử vong, vấn đề này rất nghiêm trọng, v́ vậy đối với chứng kết hung, ta phải xem xét và chờ đợi. Bệnh kết hung là một đại chứng, nếu đă có cơ hội có thể dùng Đại hăm hung thang để tả hạ, mà không nhân theo thế bệnh để tả hạ, kết quả là tà khí ngưng kết mà thành thực chứng, chính khí hư nhược bất túc, “结胸证悉具”(kết hung chứng tất cụ) tất đầy đủ hội chứng của kết hung, tất cả các triệu chứng quan trọng này đă hoàn toàn xuất hiện. Tà khí ngưng kết vững chắc, thế lực (của bệnh) đă hoàn thành, mà chính khí khó trị, v́ thế xuất hiện phiền táo (chứng trạng khó chịu bực bội) tiền đề của chứng kết hung tất cụ (đầy đủ) là xuất hiện phiền táo bất an, chính khí tán loạn, chính không thắng tà. Chứng trạng phiền táo này khác biệt với chứng trạng phiền táo của bản thân bệnh kết hung; Chính là ở kết hung đầy đủ (tất cụ), là lúc thế lực của tà khí đă h́nh thành đầy đủ xuất hiện, “diệc tử”( 亦死), dùng phép tả hạ chậm trễ cũng chết. Sớm cũng không được, trễ cũng không được, vậy là lúc nào? Là lúc thích hợp. Phần trước là v́ quá mạnh, tả hạ khi không nên tả hạ; Phạm sai lầm ở câu thứ hai là quá dè dặt cẩn thận, không theo kịp điều trị, th́ cũng như phạm sai lầm. Từ hai điều này chúng ta nhận được bài học “ứng hạ giả, tắc hạ chi” (应下者,则下之) nên hạ th́ hạ, nắm vững bệnh cơ (phát sinh, phát triển, biến hoá và kết cục), nắm vững t́nh trạng bệnh, như vậy sẽ tránh được hậu quả, “hạ chi hoặc tảo”, “ hạ chi hoặc tŕ” (下之或早)、(下之或迟) dùng phép tả hạ quá sớm hoặc quá trễ.
134 太阳病,脉浮而动数,浮则为风,数则为热,动则为痛,数则为虚,头痛发热,微盗汗出而反恶寒者,表未解也。医反下之,动数变迟,膈内拒痛一云:头痛即眩, 胃中空虚,客气动膈,短气躁烦,心中懊憹,阳气内陷,心下因硬,则为结胸,大陷
胸汤主之。若不结胸,但头汗出,余处无汗,剂颈而还,小便不利,身必发黄也。 C142
134 Thái dương bệnh, mạch phù nhi động sác, phù tắc vi phong, sác tắc vi nhiệt, động tắc vi thống, sác tắc vi hư, đầu thống phát nhiệt, vi đạo hăn xuất nhi phản ố hàn giả, biểu vị giải dă. Y phản hạ chi, động sác biến tŕ, cách nội cự thống nhất vân: Đầu thống tức huyễn, vị trung không hư, khách khí động cách, đoản khí táo phiền, tâm trung ảo năo, dương khí nội hăm, tâm hạ nhân ngạnh, tắc vi kết hung, Đại hăm hung thang chủ chi. Nhược bất kết hung, đăn đầu hăn xuất, dư xử vô hăn, tễ cảnh nhi hoàn, tiểu tiện bất lợi, thân tất phát hoàng dă. C142
Đại hăm hung thang
Nhất tiền Cam toại nhất thăng Tiêu
Lục lạng Đại hoàng lực pha nhiêu
Nhật bô triều nhiệt phúc thống măn
Hung tiền kết tụ thử phương tiêu
Đại hoàng 6 lạng, bỏ vỏ Mạng tiêu 1 thăng Cam toại 1 tiền, ba vị thuốc trên dùng 6 thăng nước, đầu tiên nấu vị Đại hoàng, lấy 2 thăng, bỏ bă, cho vị Mang tiêu vào, nấu sôi một hai chập, cho bột Cam toại vào, uống 1 thăng lúc nước thuốc c̣n ấm, tả lợi nhanh chóng, ngừng uống.
Điều văn giảng về thái dương bệnh ngộ hạ sinh biến chứng kết hung hoặc phát hoàng (vàng da). Được phân thành 3 đoạn để giải thích.
“Thái dương bệnh, mạch phù nhi động sác, phù tắc vi phong, sác tắc vi nhiệt, động tắc vi thống, sác tắc vi hư, đầu thống phát nhiệt, vi đạo hăn xuất nhi phản ố hàn giả, biểu vị giải dă” (太阳病,脉浮而动数,浮则为风,数则为热,动则为痛,数则为虚,头痛发热,微盗汗出而反恶寒者,表未解也) là đoạn thứ nhất.
“Y phản hạ chi, động sác biến tŕ, cách nội cự thống nhất vân: Đầu thống tức huyễn, vị trung không hư, khách khí động cách, đoản khí táo phiền, tâm trung ảo năo, dương khí nội hăm, tâm hạ nhân ngạnh, tắc vi kết hung, Đại hăm hung thang chủ chi.” (医反下之,动数变迟,膈内拒痛一云:头痛即眩, 胃中空虚,客气动膈,短气躁烦,心中懊憹,阳气内陷,心下因硬,则为结胸,大陷胸汤主之。) là đoạn thứ hai.
“Nhược bất kết hung, đăn đầu hăn xuất, dư xử vô hăn, tễ cảnh nhi hoàn, tiểu tiện bất lợi, thân tất phát hoàng” (若不结胸,但头汗出,余处无汗,剂颈而还,小便不利,身必发黄也。) là đoạn thứ ba.
Đoạn thứ nhất“Thái dương bệnh, mạch phù nhi động sác, phù tắc vi phong, sác tắc vi nhiệt, động tắc vi thống, sác tắc vi hư, đầu thống phát nhiệt, vi đạo hăn xuất nhi phản ố hàn giả, biểu vị giải dă” (太阳病,脉浮而动数,浮则为风,数则为热,动则为痛,数则为虚,头痛发热,微盗汗出而反恶寒者,表未解也)phân tích theo mạch và chứng, biết được biểu tà chưa giải. Dùng Đại hăm hung thang trị chứng kết hung, sợ nhất là biểu tà không giải, v́ sao biết rằng biểu tà chưa giải? Ở đây có chứng trạng then chốt là, “nhi phản ố hàn” (而反恶寒) mà lại ghét lạnh, mà “hữu nhất phân ố hàn, tiện hữu nhất phân biểu chứng” (有一分恶寒,便有一分表证) có một chút sợ lạnh là có một chút biểu chứng, sợ lạnh là một chứng trạng then chốt của biểu chứng.
Đoạn thứ hai thảo luận về sau khi ngộ hạ, biểu tà không giải. Sau khi dùng Đại hăm hung thang ngộ hạ, biểu tà Thái dương hăm vào trong, “Thái dương bệnh, hạ chi hậu, kỳ khí thượng xung giả, khả dữ Quế chi thang”(太阳病,下之后,其气上冲者,可与桂枝汤), có thượng xung là có nội hăm, dương tà hăm vào trong, dưới tim cứng và đau, “Tắc vi kết hung” (则为结胸), chính là “Bệnh phát vu dương, nhi phản hạ chi, nhiệt nhập nhân tác kết hung” (病发于阳,而反下之,热入因作结胸) Bệnh phát ở dương, mà lại hạ nhầm, nhiệt nhập lư là nguyên nhân gây chứng kết hung, dùng Đại hăm hung thang để trị liệu.
Ư của đoạn thứ ba, nếu như không kết hung, sau khi ngộ hạ, nhiệt và thấp kết, mà không kết với thuỷ, nhiệt kết với thuỷ gọi là kết hung. Thấp và nhiệt ràng buộc nhau, nhiệt không thoát được, cho nên “Đăn đầu hăn xuất, tễ cảnh nhi hoàn” (但头汗出,剂颈而还) xuất mồ hôi đầu, từ cổ trở lại. Thấp bị nhiệt dẫn dắt mà không thể bài tiết, v́ thế tiểu tiện không thuận lợi. Như vậy là thấp nhiệt hun đốt mà phát sinh chứng hoàng đản (vàng da).
“Thái dương bệnh, mạch phù nhi động sác” (太阳病,脉浮而动数), Thái dương bệnh, mạch phù là đúng, mạch phù là bệnh tại biểu, “而动数”(nhi động sác), “động” (动) ở đây không phải là “động mạch” (动脉), không phải là mạch động trong Tần Hồ mạch học, “động mạch dao dao sác tại quan, vô đầu vô vĩ đậu h́nh đoàn” (动脉摇摇数在关,无头无尾豆形团) Mạch lay động và nhanh ở bộ quan, không đầu, không đuôi, tṛn như hạt đậu, theo ư kiến của người viết th́ mạch này chính là mạch phù mà táo động, mạch đập rất nhanh, v́ mạch đập táo động không phổ biến, mạch đập rất nhanh, là mạch sác cấp, cho nên goi là “động sác” (动数). Mạch phù chủ phong, mạch sác chủ nhiệt, là biểu có phong nhiệt. phù động và mạch sác hợp lại, là biểu tà chưa giải, chắc chắn thân thể, thể biểu bị đau. “sác tắc vi hư” (数则为虚) , “sác” (数) ở đây cũng chính là khái quát (nói một cách tóm tắt), là mạch phù mà động sác, tà khí ở biểu, lư không có bệnh tà, lư c̣n hư, biểu có bệnh tà, tuy nhiên mạch đập động sác, có dấu hiệu bệnh muốn truyền vào lư, nhưng mạch c̣n phù sác là bệnh tà chưa đi vào bên trong, v́ thế nên nói rằng “sác tắc vi hư” (数则为虚) Mạch sác là biểu hiện của hư chứng.
“Đầu thống phát nhiệt” (头痛发热), là tà khí ở biểu. Có một chút đạo hăn (mồ hôi trộm), hàm ư là tà khí muốn truyền vào trong, tà khí tại biểu muốn xâm nhập vào lư, v́ là tà phong nhiệt, v́ thế bệnh nhập vào lư, thân thể dương khí thịnh, khi ngủ dương muốn nhập vào âm, sẽ xuất một chút mồ hôi (đạo hăn). Phần dưới lại thêm một câu, có phải bệnh đă hoàn toàn đều nhập lư rồi? là “vi hăn xuất” (微汗出), xuất một chút mồ hôi, bệnh chưa hoàn toàn nhập lư, đại cục cho rằng bệnh c̣n tại biểu. “Nhi phản ố hàn giả”(而反恶寒者), tuy nhiên có một chút đạo hăn, là h́nh ảnh của lư nhiệt, thế nhưng “nhi phản ố hàn” (而反恶寒), mà c̣n sợ lạnh, cho thấy biểu tà vẫn chưa được giải.
“Thương hàn nhất nhật, Thái dương thụ phạp, mạch nhược tĩnh giả, vi bất truyền; Pha dục thổ, nhược táo phiền, mạch sác cấp giả, vi truyền dă.” (伤寒一日,太阳受乏,脉若静者,为不传;颇欲吐,若躁烦,脉数急者,为传也。) Ở đây “Mạch phù nhi động sác”(脉浮而动数) là biểu hiện của truyền kinh, cần xem xét điểm này, “vi đạo hăn xuất” (微盗汗出) là xu thế của truyền kinh, cũng nên chú ư. Thế nhưng
“nhi phản ố hàn giả”(而反恶寒者), mạch phù chưa biến hoá, biểu tà cũng chưa giải, c̣n được giải biểu. Dùng phương thang nào để giải biểu? Căn cứ theo ư kiến của một số nhà chú thích, có người đề nghị dùng thang Sài hồ Quế chi, v́ có những điểm của chứng bán biểu bán lư, c̣n một chút biểu tà, bên trong c̣n một chút mồ hôi trộm (đạo hăn), v́ t́nh huống có một chút đạo hăn đều thuộc Thiếu dương bệnh. Tà khí vào lư, rồi đi đâu? Thiếu dương có chứng trạng đạo hăn, v́ thế dùng thang Sài hồ Quế chi.
Tóm lại, tà khí chưa nhập vào trong, thày thuốc không biết “Phản ố hàn giả, biểu vị giải dă” (反恶寒者,表未解也) Lại sợ lạnh, là biểu tà chưa giải, cho rằng, “đạo hăn xuất, mạch sác cấp”(盗汗出,脉数急) xuất mồ hôi trộm, mạch sác cấp (nhanh gấp) là bệnh đă nhập lư, nên “diệc phản hạ chi”(亦反下之) nên dùng phép tả hạ. “động sác biến tŕ”(动数变迟) mạch động sác hiện tại biến thành mạch tŕ, tại sao như vậy? Tà khí nhập vào trong, nên mạch động sác biến thành mạch tŕ, biến thành mạch của chứng ngưng kết, nhiệt nhập vào là nguyên nhân gây chứng kết hung, nhiệt kết với thuỷ, v́ thế mạch sẽ chậm lại. Quá tŕnh mạch biến tŕ cần xem xét một cách linh động, mạch đập rất nhanh, (táo động nhi sác), hiện tại sau khi ngộ hạ mạch chậm lại, có thể t́m hiểu mức độ của t́nh trạng này (là quá tŕnh mạch từ nhanh giảm xuống chậm), không nhất thiết phải là mạch đập ba lần (một hơi thở đập 3 lần), không nên xem như vậy là dấu hiệu của sự chết.
Mạch động sác đă biến thành mạch tŕ, mạch phù có biến không? Thành Vô Kỷ nói rằng chưa biến, cho rằng mạch phù chưa biến, chỉ là biến mạn (mạch chậm), đây là quan điểm sai lầm. Tại sao? Bạn không cần phải chú ư đến đại gia Thành Vô Kỷ là nhà chú giải hàng đầu của “Thương Hàn Luận”, về vấn đề này ông đă sai lầm. Đối với các nhà chú giải, người viết đă nhiều lần nói, bạn phải có quan điểm riêng của bạn đừng chạy theo họ, họ giỏi th́ bạn phải học hỏi và bạn cũng nên chú ư xem họ sai ở đâu.
Tại sao? Ông viết : “Vị trung không hư, khách khí động cách, đoản khí táo phiền, tâm trung ảo năo, dương khí nội hăm, tâm hạ nhân ngạnh, tắc vi kết hung, Đại hăm hung thang chủ chi.” (胃中空虚,客气动膈,短气躁烦,心中懊憹,阳气内陷,心下因硬,则为结胸,大陷胸汤主之。)
Không nghe nói khi mạch phù mà dùng Đại hăm hung thang, căn bản là không có khả năng này. Bạn có dám làm như vậy? Mạch phù nhi đại, hạ chi tắc tử (mạch phù đại, dùng phép tả hạ sẽ gây chết người). Trước mắt không có chứng kết hung mà mạch phù, đó là nói về nguồn gốc của nó. Là Trọng Cảnh dùng mạch thay bệnh lư, lấy điều này làm lư do. Có một số chú gia phê phán Thành Vô Kỷ, nói rằng họ Thành cho mạch phù ở đây bất biến. Đây chính là sai lầm của ông.
Người viết đồng ư với quan điểm này, không có khả năng c̣n mạch phù, Tại sao như vậy? “Cách nội cự thống” (膈内拒痛) Chính khí và tà khí phản kháng và chống trả nhau quyết liệt nên rất đau. “Vị trung không hư”(胃中空虚) dạ dày trống rỗng, sau khi tả hạ nhầm trong vị (dạ dày) trống rỗng (vị trung không hư), khách khí thành tà khí, khách đối với chủ mà nói, không phải chính khí, chính khí gọi là chủ khí, tà khí bên ngoài xâm phạm lồng ngực và cơ hoành, sẽ xuất hiện “đoản khí táo phiền, tâm trung ảo năo, dương khí nội hăm, tâm hạ nhân ngạnh, tắc vi kết hung” (短气躁烦,心中懊憹,阳气内陷,心下因硬,则为结胸) là thở gấp, bực bội, dưới tim phiền muộn, dương khí hăm ở trong, tâm hạ nhân ngạnh (cứng ở dưới tim) là chứng kết hung, câu 4 chữ trong ngoặc kép này, là thành chứng kết hung rồi.
Ở đây có bệnh cơ của chứng kết hung, kết hung là ǵ “tâm hạ ngạnh”(心下硬) cứng ở dưới tim,v́ sao xuất hiện “đoản khi táo phiền”(短气躁烦), thở ngắn và bực bội, trong tim c̣n “ảo năo”(懊憹) sầu năo? Đó là diễn tiến của bệnh, “vị trung không hư, khách khí động cách, đoản khí táo phiền”(胃中空虚,客气动膈,短气躁烦) dạ dày trống rỗng, khách khí xâm phạm hoành cách, thở ngắn bực bội. Thở ngắn (đoản khí), là hơi thở bị trở ngại, không phải là thở yếu (thiểu khí), thiểu khí là hư chứng, đoản khí là do nhiệt kết với thuỷ. “躁烦” (táo phiền) bực bội là có nhiệt, “phiền” là tâm phiền, “táo” (躁) là thân thể bất an, đây chính là táo phiền (chứng bực bội) vốn có của bệnh kết hung, và đúng là thực chứng “Kết hung chứng tất cụ, phiền táo giả dă tử”(结胸证悉具,烦躁者也死) Thành chứng kết hung đầy đủ bệnh nhân phiền táo bực bội là dấu hiệu chết, ở đây không giống loại h́nh đó, loại h́nh này nhẹ, loại h́nh đó nặng. Dùng “Đại hăm hung thang chủ chi”, chủ trị bệnh này.
Nếu không phải chứng kết hung, không phải nhiệt kết với thuỷ, mà là nhiệt và thấp ràng buộc nhau, thấp không thoát ra được, nhiệt cũng vậy, nhiệt t́m đường ra ngoài, theo mồ hôi để giải nhiệt nhưng không được, v́ thấp níu giữ, thấp níu giữ nhiệt ở trong, v́ thế “đăn đầu hăn xuất”. “Đăn” là có tính giới hạn, “但头汗出” (đăn đầu hăn xuất) là chỉ xuất mồ hôi ở đầu, xuất mồ hôi ở chỗ nào?, “tễ cảnh nhi hoàn”(剂颈而还), chữ tễ (剂) đổi thành chữ tễ (齐) cũng được, là ngang với tai, đó là giới hạn của mồ hôi đầu ở chứng này, là từ cổ trở lên, từ cổ trở xuống không có mồ hôi. “Dư xử vô hăn”(余处无汗), c̣n lại toàn thân không có mồ hôi, điều này cho thấy nhiệt khí không thể tuyên phát (khai thông phát tán). Khi nhiệt khí tuyên phát th́ toàn thân xuất hăn và như vậy nhiệt khí cũng xuất ra ngoài, nhưng nhiệt khí xuất ra, cũng gây tổn thương cho tân dịch, dễ thành chứng dương minh táo nhiệt. Xuất nhiều mồ hôi, các nơi khác không xuất mồ hôi (chỉ xuất mồ hôi từ ngang tai trở lên), nhiệt khí không phát tán nhiều ra ngoài. Thấp nhiệt ràng buộc nhau, nhiệt lôi kéo ảnh hưởng thấp, thấp cũng không thể tiết ra nhiều theo tiểu tiện, tiểu tiện sẽ không thuận lợi. Nhiệt không phát tán được nên xuất mồ hôi đầu, thấp không tiết ra được nên tiểu tiện bất lợi. Thấp và nhiệt ràng buộc nung nấu nhau, kết quả là “thân tất phát hoàng” (身必发黄), xuất hiện chứng hoàng đản (vàng da). Thuỷ nhiệt ngưng kết là Đại hăm hung thang chứng (chứng trạng của thang Đại hăm hung), thuỷ thấp uẩn kết là chứng trạng của Nhân trần hao thang, hoặc là chứng trạng của Nhân trần ngũ linh tán, nên xem xét những t́nh huống cụ thể.
Thang Đại hăm hung gồm ba vị thuốc, Thành Vô Kỷ giải thích vị Cam toại có khả năng tiết thuỷ như thế nào?
V́ sao có tên là “Cam toại”? Trong Chu lễ có câu. “夫间有遂” (phu gian hữu toại). “夫” (phu) Bởi v́ tôi ít đọc cuốn sách cổ này, nó có nghĩa là nông dân thời xưa có một số ruộng, và nông dân phải trồng trọt, đối với loại đất này, trong một gia đ́nh có một, hai, ba, bốn, thậm chí nhiều hơn, v́ vậy tôi sử dụng Từ "phu" (chồng) đại diện cho một đơn vị và một người. Khi canh tác cần phải lưu giữ nước, ngày nay chúng ta gọi là “thuỷ cừ”(水渠) là mương nước, người xưa gọi là “遂” (toại), là kênh dẫn nước chảy qua, “toại” dùng để tưới đất, giống với “toại” là tương thông. "Toại" (mương nước) rộng ba xích, sâu ba xích, không quá nhỏ. Vị thuốc Cam toại này, v́ sao có tên là Cam toại? Nó khả năng lợi thuỷ, thông thuỷ, hành thuỷ, cho nên dùng chữ này. “Cam toại nhược phu gian chi toại”(甘遂若夫间之遂), câu thoại này Thành Vô Kỷ đă dẫn chứng trong sách Chu lễ “Phu gian hữu toại” (夫间有遂) , giống như mương nước trong ruộng.
Phương thang này, “Thượng tam vị, dĩ thuỷ lục thăng” (Ba vị trong thang thuốc, dùng 6 thăng nước). Ba vị này sắc vị nào trước? Sắc vị Đại hoang trước. “Tiên chử Đại hoàng, thủ nhị thăng), sắc vị Đại hoàng trước, 6 thăng nước nấu c̣n lại hai thăng nước, bốc hơi 4 thăng, “bỏ bă” bỏ vị Đại hoàng đi, c̣n lại 2 thăng nước, “nội Mang tiêu” cho vị Mang tiêu vào, đun sôi một hai chập, cho vị Cam toại vào và không nấu nữa, “ôn phục nhất thăng” (uống 1 thăng lúc thuốc c̣n ấm), là uống một nửa số thuốc, sau khi đă đại tiện rồi th́ không cần uống nữa, thuốc đă có hiệu quả.
135 伤寒六七日,结胸热实,脉沉而紧,心下痛,按之石硬者,大陷胸汤主之。 C143
135 Thương hàn lục thất nhật, kết hung nhiệt thực, mạch trầm nhi khẩn, tâm hạ thống, án chi thạch ngạnh giả, Đại hăm hung thang chủ chi. C143
Bài viết này liên kết với phần trước để mô tả hội chứng đại kết hung và các phương pháp điều trị. Ở đây có ba chứng đại diện, người ta gọi là kết hung tam chứng, một là mạch trầm và khẩn, hai là tâm hạ thống, ba là ấn vào thấy cứng như đá, những điều này được tŕnh bày ở phần dưới.
“Thương hàn lục thất nhật”(伤寒六七日) Thương hàn 6,7 ngày, bệnh ở đây chưa bị ngộ hạ. Câu trên chính là “Y phản hạ chi, động sác biến tŕ” (医反下之,动数变迟), là thày thuốc dùng phép hạ, mạch động sác biến thành mạch tŕ, chính là do sau khi hạ nhầm nên tà khí từ Thái dương biểu nhiệt kết vào bên trong, thành chứng Đại kết hung. Điều C143 là nói về khi chưa dùng phép công hạ, v́ bệnh tà ở Thái dương 6,7 ngày chưa giải trừ, thời gian khá dài, chưa trị liệu kịp thời, bệnh tà tại biểu không được giải trừ, sẽ truyền nhập vào trong, khi truyền vào trong, thuỷ và nhiệt ngưng tụ lại với nhau, tạo thành kết hung
đó là nguồn gốc của bệnh, thực nhiệt chính là bệnh lư của bệnh, một nhiệt chứng đột xuất (nổi bật), một thực chứng đột xuất, một kết hung đột xuất, đó chính là lai lịch của bệnh. Mạch trầm mà khẩn, v́ biểu tà đă nhập lư, đă là chứng thực nhiệt nên mạch trầm, là mạch đă không c̣n phù. Chứng này là thực chứng, là thuỷ chứng, đồng thời c̣n bị đau. Mạch trầm chủ lư, mạch trầm lại chủ thuỷ, có thuyết “Trầm tiềm thuỷ súc âm kinh bệnh” (沉潜水蓄阴经病)là mạch trầm biểu hiện tích trữ nước bệnh ở kinh âm, mạch trầm, mạch thực chủ thuỷ; Mạch Khẩn một là phản ảnh của thực chứng, một là phản ảnh của đau, mức độ đau của bệnh này rất nặng. “Mạch trầm nhi khẩn” (脉沉而紧) phản ảnh chứng kết hung thực chứng của thực nhiệt và thuỷ nhiệt ngưng kết, mà c̣n kèm theo chứng trạng đau. Hội chứng chính là “tâm hạ thống” (心下痛)đau phía dưới tim, “án chi thạch ngạnh” (按之石硬)ấn vào thấy cứng như đá, “thạch ngạnh” (cứng như đá) là nói một cách khoa trương, chỉ là cơ bụng cứng thôi, hiện nay mô tả về chứng trạng này chỉ gọi là “板状腹” (bản trạng phúc) bụng rắn chắc, rất cứng, không mềm mại nhu hoà, đồng thời bị đau.
Đây là bệnh ǵ? Đây chính là bệnh kết hung, nhiệt và thuỷ ngưng tụ tại phía dưới tim, ở tâm hạ (phía dưới tim) là chỗ nào? Ở trong dạ dày? Không phải. Chính là ở cơ bụng, trong cơ bụng thấm ra một ít thuỷ dịch, theo y học cận đại, một số bác sĩ cho rằng đây là một loại bệnh giống như viêm phúc mạc cấp tính. V́ thế “Mạch trầm nhi khẩn, tâm hạ đông thống) (mạch trầm mà khẩn, đau dưới tim), đau của bệnh này khá tệ hại, ấn ở vùng dưới tim thấy rất cứng, đây chính là chứng kết hung. Dùng “Đại hăm hung thang chủ chi” (thang Đại hăm hung trị bệnh này), các thuốc khác không hiệu quả, dùng Đại hăm hung thang tả nhiệt phá thuỷ, tẩy rửa hết thuỷ nhiệt ngưng trệ, điều trị tốt bệnh này. Điều C139 giảng về chứng kết hung “kết hung gỉa, hạng diệc cường” (chứng kết hung, cứng gáy) bệnh tà ở trên cao; Điều này “Tâm hạ thống, án chi thạch ngạnh” (đau phía dưới tim, ấn vào thấy cứng như đá) là bệnh tà ở giữa, “tâm hạ” là ở giữa, phần dưới c̣n có bệnh tà ở dưới, vị trí bệnh phân ra có trên, giữa và dưới. Đây chính là chứng trạng của Đại hăm hung thang. Dùng Đại hăm hung thang để điều trị bệnh.
Ba chứng nêu trên, “Mạch trầm nhi khẩn, tâm hạ thống, án chi thạch ngạnh giả, Đại hăm hung thang chủ chi” (Mạch trầm mà khẩn, đau phía dưới tim, ấn vào thấy cứng như đá, Đại hăm hung thang trị bệnh này), cần phải ghi chép từ trên xuống dưới. Tại sao phải ghi nhớ từ trên xuống dưới? Ghi nhớ là một quá tŕnh của thành thục, khi đă thành thục sẽ có thể phản ảnh và chỉ đạo lâm sàng một cách chính xác. Bởi v́ những ǵ chúng ta học được dù sao vẫn chỉ là những điều cơ bản, những văn tự, kế thừa kinh nghiệm của người xưa, biến chúng thành những kiến thức của cá nhân ḿnh, có thể biện chứng luận trị ứng dụng vào thực tế, ở đó c̣n có quá tŕnh hấp thu, lĩnh hội, kinh nghiệm, hiểu biết và nhận thức. Nếu ghi nhớ không tốt, ấn tượng mơ hồ, sẽ sai sót khi tiến hành chẩn đoán bệnh. Ba chứng của bệnh này rất đơn giản, người xưa chú trọng vào những điểm chính khi mô tả các triệu chứng, nên không phức tạp và dễ nhớ. Ở đây thuyết minh một vấn đề, bệnh này nói về một số bệnh ở vùng bụng. hiện tại gọi là cấp phúc chứng, nhất định phải dùng tay để ấn nắn vùng bụng, đây chính là truyền thống của Trung y, làm như thế nào? “Thương Hàn Luận” đă chẳng nói “Án chi thạch ngạnh giả” (ấn vào thấy cứng như đá) nếu bạn không dùng tay, làm sao biết được “Thạch ngạnh” (cứng như đá), chỉ xem và hỏi th́ có thể biết là cứng như đá không?
Hiện nay khi khám bệnh, người thày thuốc chẩn mạch ba bộ thốn quan và xích, chẩn mạch cẩn thận rồi viết đơn thuốc, điều này không phù hợp với phương pháp biện chứng luận trị của truyền thống Trung y, có một số bệnh cần phải khám bệnh bằng tay sờ nắn bệnh nhân, nếu không th́ không cảm nhận được tính chất của bệnh. Các câu ghi trong “Thương Hàn Luận” như “nhiễu tề thống” (đau quanh rốn), “tâm hạ ngạnh kết” (cứng ở dưới tim), “cự án” (không thích ấn nắn). đều phản ảnh vấn đề này.
136 伤寒十余日,热结在里,复往来寒热者,与大柴胡汤。但结胸无大热者,此为水结在胸胁也,但头微汗出者,大陷胸汤主之。 C144
137 太阳病,重发汗,而复下之,不大便五六日,舌上燥而渴,日晡所小有潮热一云:日晡所发心胸大烦, 从心下至少腹,硬满而痛,不可近者,大陷胸汤主之。 C145
136 Thương hàn thập dư nhật, nhiệt kết tại lư, phục văng lai hàn nhiệt giả, dữ Đại sài hồ thang. Đăn kết hung vô đại nhiệt giả, thử vi thuỷ kết tại hung hiếp dă, đăn đầu vi hăn giả, Đại hăm hung thang chủ chi. C144
137 Thái dương bệnh, trọng phát hăn, nhi phục hạ chi, bất đại tiện ngũ lục nhật, thiệt thượng táo nhi khát, nhật bô sở tiểu hữu triều nhiệt nhất vân: Nhật bô sở phát tâm hung đại phiền, ṭng tâm hạ chí thiểu phúc, ngạnh măn nhi thống, bất khả cận dă, Đại hăm hung thang chủ chi. C145
Điều C144 là chứng kết hung mà tựa như Thiếu dương bệnh, và điều C145 là chứng kết hung tựa như Dương minh bệnh, hai điều này có một mức độ phức tạp nhất định, và không giống nhau đơn thuần như “Mạch trầm nhi khẩn, tâm hạ thống, án chi thạch ngạnh giả”(脉沉而紧,心下痛,按之石硬者) mạch trầm khẩn, đau dưới tim, ấn vào cứng như đá. Điều C144 là chứng kết hung có những điểm giống Thiếu dương bệnh. Trong đoạn văn đưa ra ba vấn đề, một là “nhiệt kết tại lư” (热结在里) nhiệt kết ở bên trong, hai là “phục văng lai hàn nhiệt” (复往来寒热) lại thấylạnh nóng thay nhau xuất hiện, ba là “đăn kết hung”(但结胸) nhưng là chứng kết hung. “Thương hàn thập dư nhật”(伤寒十余日) là quá tŕnh bệnh này, là quá tŕnh diễn biến của bệnh, thương hàn, phát sốt đă hơn 10 ngày, bệnh có đỡ không? Không đỡ. Bệnh không đỡ như thế nào và ở mức độ nào? Bệnh đă ở giai đoạn nào? Chính là “Nhiệt kết tại lư”(热结在里) nhiệt kết ở bên trong, biểu tà Thái dương đă hoá nhiệt nhập lư, “tại lư”, c̣n có thêm chữ “kết”, kết chính là ngưng kết, kết tụ, nhiệt đă kết tụ ở trong. Câu văn này có ư nghĩa như thế nào? Ư tại ngôn ngoại, ư là đại tiện táo kết không thông, v́ thế gia thêm “nhiệt kết”, chính là nhiệt kết ở trong, chính là vị gia thực chứng của Dương minh. “Phục văng lai hàn nhiệt giả”(复往来寒热) Lại lạnh nóng thay nhau xuất hiện, “Phục” (Lại) được sử dụng để giải thích chữ “phản”, nói rằng nhiệt kết tại lư, lại thấy một trận lạnh, một trận nóng, lạnh đến mà nóng đi, nóng đến mà lạnh đi, xuất hiện chứng trạng hàn nhiệt văng lai của Thiếu dương bệnh. Ở đây có ư ǵ? Đây chính là nhiệt kết Dương minh, mà ở bên cạnh Thiếu dương, cũng có thể nói Thiếu dương và Dương minh hỗ tương nhau gây bệnh. Như vậy nhiệt vẫn chưa hoàn toàn luyện kết thành thực chứng, v́ c̣n thấy Thiếu dương chứng (Hàn nhiệt văng lai) nên không thể dùng thang Thừa khí. “Dữ Đại sài hồ thang” (với thang Đại sài hồ), như vậy sẽ dùng thang Đại sài hồ, thang Đại sài hồ tả thực chứng của kinh Dương minh, lại giải bệnh tà bán biểu bán lư của kinh Thiếu dương. Chúng ta đọc sách của người xưa cần phải suy lư, cân nhắc, đă là nhiệt kết tại lư, sẽ có phản ứng của nó, như tâm hạ cấp (bồn chồn nóng vội), đau bụng, nên liên tưởng để biết. Kinh dương minh có thực nhiệt, Đại sài hồ thang không c̣n tâm hạ cấp, cấp là ǵ? Là khó chịu, ư là trướng đầy và đau. “Văng lai hàn nhiệt” chính là khí của Thiếu dương bất hoà, xu cơ bất lợi (công năng sinh lư vận hành bị trở ngại). Ư tại ngôn ngoại, ngoại trừ “Văng lai hàn nhiệt” cũng cần có “hung hiếp khổ măn”. Nếu có các chứng trạng như, đau ở dạ dày (tâm hạ ), ngực sườn bực bội, đau và khó chịu, như thế có giống như chứng Đại kết hung? V́ sao điều này lại được tŕnh bày cùng với chứng kết hung? V́ nó có những điểm giống với chứng kết hung.
Làm sao để phân biệt? “Đăn kết hung, vô đại nhiệt giả” (但结胸,无大热者), chữ “đăn” (nhưng) này được dùng thật tuyệt, cách dùng chữ này làm cho vấn đề được rơ ràng minh bạch. Nếu là chứng kết hung, “đăn kết hung” th́ không có vấn đề ǵ khác, chữ “đăn” ở đây có tính giới hạn. Như vậy, có hay không chứng trạng văng lai hàn nhiệt? Không có chứng trạng này. Chứng kết hung có chứng trạng văng lai hàn nhiệt không? Chính là không thể. Như vậy, bệnh kết hung có nóng sốt như Dương minh bệnh không? Cũng không có như vậy. Tại sao như thế? “Kết hung giả, thị nhiệt dữ thuỷ kết dă”(结胸者,是热与水结也) chứng kết hung là nhiệt kết với thủy, là trong thuỷ có nhiệt, chứng kết hung có phát sốt, điều này chúng ta cũng nhận thấy trên lâm sàng, nhưng chứng trạng phát sốt của chứng kết hung không giống chứng phát sốt “chưng chưng nhi nhiệt” (蒸蒸而热)nóng hầm hầm của Dương minh bệnh. V́ thế “đăn kết hung, vô đại nhiệt giả”(但结胸,无大热者) nhưng chứng kết hung không sốt cao, đây là điểm phân biệt của nó với bệnh ở kinh Dương minh và kinh Thiếu dương, đă không có chứng trạng “văng lai hàn nhiệt”, không sốt như bệnh ở kinh Dương minh, nhưng chứng này cũng sốt đồng thời c̣n có chứng trạng tâm hạ cứng đầy và đau. Bệnh này chính là “Thử vi thuỷ kết tại hung hiếp dă”(此为水结在胸胁也) Là chứng thuỷ ngưng kết ở ngực và cạnh sườn và không giống với Đại sài hồ thang chứng, Đại sài hồ thang là nhiệt và khí ngưng kết, ở đây là “Thử vi thuỷ kết tại hung hiếp dă”(此为水结在胸胁也)Đây là thuỷ ngưng kết ở ngực và cạnh sườn, nhiệt và thuỷ ở tâm hạ (dạ dày) tiếp cận với lồng ngực và sườn, khiến ngực sườn cũng đau, tâm hạ đầy cứng và đau.
Đồng thời, “đăn đầu vi hăn xuất giả”(但头微汗出者) trên đầu xuất một chút mồ hôi. V́ thuỷ và nhiệt ngưng kết, nhiệt bị thuỷ ngăn chặn, nhiệt ở trong nước nên không thể vượt lên, v́ thế toàn thân không xuất mồ hôi, chỉ ở trên đầu có mồ hôi nhưng rất ít, trên đầu có một chút mồ hôi là phản ảnh của nhiệt khí không thể vượt ra ngoài, cũng là phản ảnh của chứng thuỷ nhiệt kết hung. T́nh huống này không xuất hiện ở dương minh bệnh và Thiếu dương bệnh, đây chính là hội chứng để phân biệt. “Đại hăm hung thang chủ chi”(大陷胸汤主之)thang Đại hăm hung trị bệnh này, ở đây không cần dùng thang Đại sài hồ, chứng trạng của thang Đại sài hồ là văng lai hàn nhiệt, tâm hạ cấp (dạ dày khó chịu không thoải mái) ngực sườn phiền muộn, nhưng tâm hạ không cứng, chứng trạng của thang Đại sài hồ là văng lai hàn nhiệt, hoặc là nhiệt của dương minh do thuỷ kết với nhiệt ở trong lư, c̣n thuỷ kết với nhiệt của chứng kết hung không có chứng trạng này, nên chỉ hữu dụng khi dùng Đại hăm hung thang để điều trị. Đoạn văn này tŕnh bày những điểm tương tự của chứng kết hung và Đại sài hồ thang chứng, trên lâm sàng nên phân biệt, so sánh, căn cứ theo nhiệt h́nh, tính chất đau, án chẩn, phúc chẩn để so sánh độ cứng mềm của cơ bụng th́ cũng không quá khó để phân biện, chứng kết hung đau tệ hại, đây chính là chứng kết hung tựa như Thiếu dương bệnh.
Điều C145 tŕnh bày chứng kết hung tương tự như Dương minh bệnh. Bệnh này do Thái dương bệnh phát triển mà thành, chính là “trọng phát hăn”重发汗) cũng vậy, phát hăn quá độ cũng thế, lại sử dụng phép công hạ, phát hăn gây tổn thương tân dịch, công hạ khiến biểu tà nhập lư. “Bất đại tiện ngũ lục nhật, thiệt thượng táo nhi khát”( 不大便五六日,舌上燥而渴) là đă 5,6 ngày không đi đại tiện, đại tiện bí kết, “Thiệt thượng táo”(lưỡi khô). “táo” là không có tân dịch, “nhi khát” là cần uống nước, v́ thiếu tân dịch, nên muốn uống nước, uống nước để tự cứu. Xem như vậy có nhiều điểm giống với bệnh ở kinh Dương minh.
“Nhật bô sở tiểu hữu triều nhiệt”(日晡所小有潮热), khoảng ba giờ chiều gọi là“nhật bô sở”(日晡所) là giờ thân (15-17 giờ), “Tiểu hữu triều nhiệt”, tiểu là bé, là ít, một cơn nóng nhẹ, gọi là “tiểu hữu triều nhiệt” (小有潮热)cơn bốc hoả nhỏ. Cơn bốc hoả của Dương minh bệnh rất kịch liệt, sốt rất cao, v́ Dương minh là một phủ đa khí đa huyết (nhiều khí huyết), nên lực đấu tranh với bệnh của nó rất mạnh, thời gian sau giờ ngọ là thời điểm khí Dương minh vượng thịnh, thuận lợi trong việc đấu tranh với bệnh tà, nên nhiệt thế của nó lúc này không phải “tiểu hữu” (nhỏ bé) mà rất lớn mạnh. Hiện tại tuy có chứng trạng triều nhiệt giống như Dương minh bệnh, nhưng chứng triều nhiệt lại không “tiểu hữu” nhỏ bé như bệnh ở Dương minh, đây là cơn sốt, đại tiện, khát nước của nó. Sau đó cần phải khám dạ dày, cơ sở chẩn đoán và có vai tṛ quyết định là mấy câu sau. “Ṭng tâm hạ chí thiểu phúc”(从心下至少腹) từ tâm hạ (phía dưới tim) xuống thẳng đến bụng dưới, đến phía trên xương mu, đều “ngạnh măn nhi thống”( 硬满而痛)cứng đầy mà đau, “Ngạnh”(cứng) là sờ nắn thấy cứng, “măn” (đầy) là đầy trướng, bệnh nhân cảm thấy đầy trướng và đau. “Bất khả cận giả”(不可近者) là không thể chạm vào, dạ dày đau tệ hại, bệnh nhân sợ đau, không muốn ai ở bên cạnh, sờ hoặc chạm vào ḿnh, “bất hành! Ngă giá đông! li ngă viễn điểm nhi, bất yếu bàng ngă, đỗ tử đông a”(不行!我这疼!离我远点儿,不要碰我,肚子疼啊), không được, tôi đau, xa tôi ra, không cần ở gần tôi, bụng tôi đau. Cùng xem đây có phải là căn bệnh hiện đại gọi là kích thích phúc mạc và viêm phúc mạc không . Là chứng Dương Minh táo kết, hay chứng đại kết hung hội chứng thủy nhiệt kết tụ?
Bệnh này có hai vấn đề là “bất đại tiện” (không đi cầu) và “thiệt thượng táo nhi khát”(舌上燥而渴)là lưỡi khô và khát; C̣n có “nhật bô sở”(日晡所)khoảng ba giờ chiều, có “triều nhiệt” (潮热)sốt sau trưa, có chứng trạng của dương minh bệnh, tại sao? Bệnh ở kinh Thái dương phát hăn quá nhiều, lại dùng phép tả hạ, v́ thế bệnh tà nhập lư, vị tràng táo nhiệt lại có thuỷ ngưng tụ, tà nhiệt và thuỷ ngưng kết ở vùng bụng bên ngoài vị tràng, phạm vi của bệnh là toàn bộ vùng bụng, từ tâm hạ đến bụng dưới, có diện tích khá lớn, cứng đầy và đau, không muốn đụng chạm, phân tích như vậy cho thấy đây không phải là chứng đau bụng, chứng đau bĩ đầy của bệnh ở kinh Dương minh.
Tại sao? V́ bệnh ở kinh dương minh là do khí trong phủ không thuận lợi, phạm vi của bệnh không thể đầy trướng và đau từ tâm hạ (phía dưới tim) xuống đến bụng dưới được, phạm vi của bệnh không lớn như vậy. “Dương minh vị gia thực” (tà nhiệt bĩ ở dương minh), tràng táo, đau bụng v́ phân khô, phạm vi đau chỉ ở vùng chung quanh rốn, không thể kéo dài từ phía dưới tim xuống đến bụng dưới. Đó là chứng kết hung, diện tích của chứng kết hung rộng lớn, nhiệt kết với thuỷ, toàn bộ vùng bụng, phúc mạc. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai là, cơn sốt sau buổi trưa (triều nhiệt) của dương minh bệnh sốt rất cao, c̣n ở đây cơn sốt sau trưa là sốt nhẹ (Tiểu hữu triều nhiệt), cho thấy lực bệnh vẫn c̣n ở dạng thuỷ nhiệt, táo nhiệt, nhưng chỉ là thứ yếu. Dương minh có nhiệt không? Dương minh có nhiệt, lực của nhiệt và thuỷ ngưng kết của cái nào lớn cái nào nhỏ? Lực ngưng tụ (kết) của nhiệt và thuỷ ở đây rất lớn, v́ thế đây chính là chứng kết hung mà có những điểm giống như Dương minh chứng.
Tào Dĩnh Phủ trong 《Kinh phương thực nghiệm lục》 có một y án liên quan đến chứng Đại kết hung. Chứng Đại kết hung, lúc đầu lăo tiên sinh cho rằng đây là dương minh chứng, v́ ở vị trí rất dễ lẫn lộn với dương minh, liền dùng một thang Đại thừa khí. Sau khi uống kết quả ra sao. Tốt hay không tốt? Bệnh nhân liền đi đại tiện. Đại hoàng, Mang tiểu, Hậu phác, Chỉ thực đều là tả dược, sau khi đi tả bệnh nhân cảm thấy thoải mái được một lát, nhưng không giải quyết được hết các vấn đề, bệnh nhân c̣n đau. Cho rằng thuốc c̣n ít chưa đủ nên cho uống thêm 1 thang, v́ thang Đại thừa khí của Trương Trọng Cảnh có một câu, “Nhất hạ vị liễu, khả dĩ tái hạ nhất thứ” (一下未了,可以再下一次) là hạ một lần chưa khỏi bệnh, có thể tái hạ), sau khi uống thêm bệnh cũng không khỏi, sau đó lăo tiên sinh nhận định lại bệnh, thấy đây chính là chứng kết hung mà tương tự như dương minh chứng, nên sử dụng thang Đại hăm hung, sau khi uống 1 thang Đại hăm hung bệnh liền có những biến chuyển tốt. V́ sao Đại thừa khí thang không giải quyết được? V́ sao Đại hăm hung thang lại giải quyết được bệnh? V́ thang Đại thừa khí có tác dụng tiết nhiệt nhưng chỉ giới hạn trong tràng vị (ruột và dạ dày), không thể tẩy rửa được nhiệt thuỷ kết tụ trong ngực và bụng, lực thuốc không mạnh.
Dùng thang Đại hăm hung hạ được thủy nhiệt kết tụ, v́ có Đại hoàng, Mang tiêu, lại kèm tác dụng hạ táo (trừ khứ t́nh trạng khô khan) của Dương minh, có thể nhất cử lưỡng đắc. Điều C145 nói về chứng Đại kết hung, dựa vào đâu để gọi nó là “Đại kết hung” chính v́ phạm vi bệnh biến của nó rộng, “ṭng tâm hạ chí thiểu phúc ngạnh măn nhi thống, bất khả cận giả”(从心下至少腹硬满而痛,不可近者) là đau trướng và cứng từ dưới tim xuống đến bụng dưới, không thể đụng chạm, đau tệ hại, diện tích lớn, đó chính là những đặc điểm của bệnh Đại kết hung. Lấy các trường hợp này của bệnh kết hung, bắt đầu từ Đại hăm hung hoàn đến kết hung tam chứng ở giữa (tâm hạ), việc này tương tự như điều C145 của Dương minh ở bụng, chứng kết hung này do đâu? Đây gọi là liên hệ, phát triển, bệnh đă đến bụng, vị trí bệnh có cao có thấp, ở trên, ở giữa và ở dưới, có sâu có nông, có nhẹ có nặng. Lâm sàng biện chứng kết hung thứ nhất là mạch trầm khẩn có lực, thứ hai là cứng đầy và đau, diện tích và tính chất đau nghiêm trọng, đồng thời cho thấy ở chứng kết hung đại tiện cũng bí kết (táo bón).
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-12-12 23:26:11
Từ điều 138 đến điều 141
138 小结胸病,正在心下,按之则痛,脉浮滑者,小陷胸汤主之。 C146
138 Tiểu kết hung bệnh, chính tại tâm hạ, án chi tắc thống, mạch phù hoạt giả, Tiểu hăm hung thang chủ chi C146
Phương thang Tiểu hăm hung
Chính tại tâm hạ án thuỷ đông
Mạch kiến phù hoạt tà kết khinh
Bán thăng Bán hạ nhất lạng Liên
Đại cá Qua lâu yếu tiên phanh
Hoàng liên 1 lạng Bán hạ nửa thăng rửa sạch một quả Qua lâu to.
Ba vị thuốc trên, dùng 6 thăng nước, nấu Qua lâu trước, nấu c̣n 3 thăng nước, bỏ bă, cho hai vị c̣n lại vào, nấu c̣n 2 thăng, bỏ bă, chia ba lần uống.
Điều này tiếp theo điều trên tŕnh bày chứng trạng và cách điều trị bệnh Tiểu kết hung. Hai điều này có sự liên hệ rất mật thiết, Tiểu kết hung là cách nói so sánh với chứng Đại kết hung. “Tiểu kết hung bệnh”, so sánh hội chứng của Tiểu kết hung với Đại kết hung, chứng trạng, phạm vi và thuốc dùng để trị liệu của Tiểu kết hung đều nhỏ, cho nên gọi là Tiểu kết hung, sử dụng Tiểu hăm hung thang.
Vị trí bệnh của Tiểu hăm hung là “Chính tại tâm hạ”, “chính” là đúng là hợp t́nh hợp lư, không thiên lệch, vị trí bệnh của Đại kết hung là đầy cứng và đau từ tâm hạ xuống đến bụng dưới, c̣n vị trí bệnh của Tiểu kết hung chỉ ở tâm hạ, vị trí bệnh nhỏ hơn Đại kết hung. Chứng Tiểu kết hung vô luận phát triển như thế nào th́ vị trí bệnh vẫn chỉ là “chính tại tâm hạ” (正在心下), chỉ ở vị quản (khoang dạ dày) và không đi xuống dưới. Tính chất đau của bệnh, v́ bệnh kết hung chủ yếu là đau, chính là (án chi tắc thống) “按之则痛” ấn vào th́ đau, so với (Ngạnh măn nhi thống, bất khả cận giả) “硬满而痛,不可近者” Cứng đầy và đau không thể chạm vào (là chứng trạng của Đại kết hung) th́ chứng trạng của Tiểu kết hung nhỏ và nhẹ hơn. “Án chi tắc thống” (按之则痛)ấn vào th́ đau, ư tại ngôn ngoại, ngầm hiểu là không ấn vào th́ không đau nhiều, nhưng câu nói này có thể xem như, trên lâm sàng chứng Tiểu kết hung khi không ấn nắn cũng đau, nhưng là đau nhẹ, không như chứng đau nghiêm trọng của Đại kết hung.
Đại kết hung “Mạch trầm nhi khẩn”(脉沉而紧), ba chứng trạng của Tiểu kết hung là “Mạch phù hoạt giả”(脉浮滑者), phù là nhiệt và ở vị trí nông, hoạt là đàm và kết, đàm kết với nhiệt ở vị trí tương đối nông. Bệnh Đại kết hung “Mạch trầm nhi khẩn”, là thuỷ kết với nhiệt, bộ vị của bệnh sâu, nên vị trí bệnh ở sâu. V́ thế, Đại kết hung “mạch trầm nhi khẩn, tâm hạ thống, án chi thạch ngạnh”(脉沉而紧,心下痛,按之石硬), “Tiểu kết hung bệnh, chính tại tâm hạ, án chi tắc thống, mạch phù hoạt giả”(小结胸病,正在心下,按之则痛,脉浮滑者), bệnh tiểu kết hung, bệnh ở tâm hạ, ấn vào th́ đau, mạch phù hoạt, cho thấy, bệnh tiểu kết hung là do nhiệt ngưng kết, vị trí bệnh nông, bệnh không phát triển đến ngực sườn, bụng dưới, bệnh chỉ giới hạn ở tâm hạ, mạch phù hoạt, không trầm khẩn. Đă là Tiểu kết hung, khi điều trị không thể sử dụng Đại hăm hung thang, “Tiểu hăm hung thang chủ chi”(小陷胸汤主之), dùng tam vật tiểu hăm hung thang để trị bệnh này.
Đại hăm hung thang của Đại kết hung có 3 vị thuốc, tiểu kết hung thang của bệnh tiểu kết hung cũng có 3 vị thuốc, nhưng có sự khác nhau về nặng nhẹ nhanh chậm nông sâu. Tiểu hăm hung thang là “Hoàng liên nhất lạng, Bán hạ bán thăng tẩy, Qua lâu thực đại giả” (黄连一两,半夏半升洗,栝蒌实大者‛,注意‚大者), chú ư, hai từ “đại giả” là dùng quả Qua lâu lớn, không được dùng quả nhỏ, dùng một quả, là ba vị thuốc. Tại sao dùng Hoàng liên, Bán hạ, Qua lâu? V́ chứng Tiểu kết hung là do nhiệt kết đàm, không phải là nhiệt kết với thuỷ, nhiệt kết với đàm ngưng tụ tại tâm hạ, v́ thế chứng này gây đau, cần phải thanh nhiệt mà thanh nhiệt nên dùng Hoàng liên. Tác dụng thanh nhiệt của Hoàng liên không như vị Đại hoàng, Đại hoàng của thang Đại hăm hung ,có tác dụng tiết nhiệt phá kết, Hoàng liên chỉ có tác dụng tả nhiệt thôi, tác dụng tả nhiệt nhẹ hơn Đại hoàng, cho nên gọi là “Tiểu”. Bán hạ điều trị đàm ẩm, so sánh với tác dụng trừ đàm của Cam toại th́ hoà hoăn hơn rất nhiều. Bán hạ trừ đàm, trừ ẩm chậm hơn Cam toại, cho nên cũng chính là “Tiểu”. Qua lâu là thuốc nhuận lợi, so với tác dụng tả hạ nhuyễn kiên của Mang tiêu là rất hoà hoăn, ba vị thuốc gồm Hoàng liên thanh nhiệt, Bán hạ trừ đàm ẩm, Qua lâu nhuận hạ các tác dụng của ba vị thuốc này đều hoà hoăn nên được gọi Tiểu hăm hung thang, đây là phương thang thường được sử dụng, ôn bệnh cũng dùng Tiểu hăm hung thang, khi sử dụng thang Tiểu hăm hung nên chú ư phép sắc và uống thuốc, “上三味,以水六升,先煮栝蒌,取三升” (Thượng tam vị, dĩ thuỷ lục thăng, tiên chử Qua lâu, thủ tam thăng), đầu tiên sắc vị Qua lâu, v́ Qua lâu là vị thuốc có tác dụng chủ đạo trong ba vị thuốc của thang phương, lượng của Qua lâu nhiều, có tác dụng tả hạ. Nói theo trọng lượng hiện tại, nếu như 1 lạng là 30g, th́ một quả Qua lâu to nặng khoảng gần 2 lạng, được 60g, 70g, nếu không nấu trước th́ khó sắc thuốc. Đàm nhiệt ngưng kết, dùng Hoàng liên thanh nhiệt, Bán hạ để tán đàm, Qua lâu nhuận hạ, đại tiện tả hạ phân màu vàng có chất nhầy, bệnh sẽ khỏi.
Cần sắc vị Qua lâu trước. Qua lâu có vỏ dày nếu cho cả quả vào để nấu sẽ mất nhiều thời gian, do đó người ta thường cắt nhỏ để nấu dễ dàng hơn. Trong thang Tiểu hăm hung, vị Qua lâu là vị thuốc chủ yếu. V́ thế nên chú ư t́m hiểu tính năng của vị Qua lâu. Thông thường, “Thương Hàn Luận”, “Kim Quỹ Yếu Lược” dùng Qua lâu nhân có một số tác dụng giảm đau như Qua lâu giới bạch tán, Qua lâu giới bạch bán hạ thang, Qua lâu giới bạch bạch tửu thang. Trị chứng hung tí. Chứng Hung tí bao gồm bệnh mạch vành tim, đau ngực, “胸痛彻背,背痛彻心” (Hung thống triệt bối, bối thống triệt tâm) Đau từ ngực thông sang lưng và ngược lại. Bạn thấy việc này kỳ lạ, cảm giác đau này là một số vấn đề của tâm huyết quản, về đau, đông y nói rằng “Bất thông tắc thống” (Không thông th́ đau), lại không sử dụng Hồng hoa, Đan sâm, cũng không sử dụng thuốc phá huyết, mà lại dùng Qua lâu, làm sao có thể giảm đau? Đạo lư này bao gồm cả thang Tiểu hăm hung, v́ thế Qua lâu không chỉ đơn thuần là khứ đàm, tả hạ, nhuận hạ, đồng thời c̣n có tác dụng hoạt huyết.
Qua lâu có tác dụng hoạt huyết thông trệ, điều này thấy ở đâu? Có một số căn cứ cùng các bạn tham khảo. Bệnh Nhũ ung ở phụ khoa, chính là bệnh viêm tuyến vú, sưng đỏ và đau, thân nhiệt cao, một trận lạnh một trận nóng, Đông y có phương thuốc khá hay, chính là dùng Qua lâu, người viết đă từng sử dụng trên lâm sàng, Đại qua lâu 1 quả, tửu Đương quy 5 tiền (15g), Bạch chỉ 6g, Nhũ hương, Một dược đều 3g, Huyên thảo 10g, Cam thảo 10g, dùng nửa rượu nửa nước sắc uống, hiệu quả rất tốt. Như thế có thể thấy Qua lâu có tác dụng tiêu viêm. Trần Tu Viên lấy Tiểu hăm hung thang làm thành một bài ca (Án chi thuỷ thống bệnh do khinh, mạch lạc ngưng tà tâm hạ thành, Hạ thủ bán thăng liên nhất lạng, Qua lâu chỉnh cá yếu tiên phanh) “按之始痛病犹轻,脉络凝邪心下成,夏取半升连一两,栝萎整个要先烹”, “脉络凝邪” (Mạch lạc ngưng tà), “Mạch lạc” chính là huyết mạch, huyết lạc, chính là có huyết ứ, nó gây đau, v́ thế Qua lâu có tác dụng hoạt huyết.
Lư Đông Viên có Phục nguyên hoạt huyết thang trị chứng té ngă ứ huyết đau ở cạnh sườn, trong đó cũng dùng vị Qua lâu. Tôi đang điều trị ở pḥng khám ngoại trú do di chứng sau mổ vỡ gan, hôm trời mưa, vùng gan hạ sườn phải đau đến mức đau như dao cứa, chữa măi không khỏi, sau này tôi mới dùng Phục nguyên thang của Lư Đông Viên, sau khi uống vài thang mọi chứng trạng liền hết.
139 太阳病二三日,不能卧,但欲起,心下必结,脉微弱者,此本有寒分也。反下之,若利止,必作结胸;未止者,四日复下之,此作协热利也。C147
139 Thái dương bệnh nhị tam nhật, bất năng ngoạ, đăn dục khởi, tâm hạ tất kết, mạch vi nhược giả, thử bản hữu hàn phân dă. Phản hạ chi, nhược lợi chỉ, tất tác kết hung; Vị chỉ giả, tứ nhật phục hạ chi, thử tác hiệp nhiệt lợi dă. C147
Đoạn văn này gây nhiều tranh luận, người viết cho rằng đây là thảo luận về Thái dương bệnh vốn có thuỷ ẩm, sau khi ngộ hạ biến thành chứng kết hung hoặc hội chứng tiết tả kèm theo nhiệt.
“太阳病,二三日” (Thái dương bệnh, nhị tam nhật), thời gian không quá dài, biểu tà cũng chỉ là hai ba ngày, không phải 8,9 ngày, xuất hiện hội chứng ǵ? “不能卧,但欲起,心下必结” (Bất năng ngoạ, đăn dục khởi, tâm hạ tất kết), người này không thể nằm, muốn ngồi dậy hoạt động, đi lại, ngồi xuống, tâm lư thoải mái. Tại sao người này cần đứng lên? V́ “心下必结” (tâm hạ tất kết) Có kết tụ dưới tim, nếu như nằm xuống, ngưng kết sẽ tệ hơn, sẽ trướng đầy không chịu được, v́ thế cần phải đứng dậy hoạt động để hoăn giải kết tụ ở tâm hạ. Như vậy, người này có hai bệnh, một là “太阳病,二三日” (Thái dương bệnh, nhị tam nhật), là biểu chứng đă hai, ba ngày, thứ hai là xuất hiện “心下必结,不能卧,但欲起” (tâm hạ tất kết, bất năng ngoạ, đăn dục khởi) kết ở tâm hạ không thể nằm, muốn ngồi dậy, đây là một lư chứng.
Xét về mạch, “脉微弱者,此本有寒分也” (Mạch vi nhược giả, thử bản hữu hàn phận dă), Thái dương bệnh đúng ra phải thấy mạch phù, hiện tại “Mạch vi nhi nhược” (脉微而弱), “Mạch vi nhược giả” là một từ tương đối, không phải mạch này vi nhược, không nên hiểu như vậy, bệnh ở kinh thái dương, 2,3 ngày, mà thấy mạch vi nhược, chính là mạch ở kinh thiếu âm, không phải là ư này, chính là trước đây đă nói về ba phép phát hăn nhỏ. “Mạch vi nhược giả, thử vô dương dă, bất khả phát hăn, nghi Quế chi nhị việt t́ thang” (脉微弱者,此无阳也,不可发汗,宜桂枝二越婢汤)Mạch vi nhược là mạch vô dương, không thể phát hăn, nên dùng thang Quế chi nhị việt tỳ, theo đó có nghĩa là biểu chứng của Thái dương, sau 2,3 ngày, hàn tà chớm hoá nhiệt, mạch không khẩn mà tương đối vi nhược là có chiều hướng hoá nhiệt nhập lư rồi. “Đăn dục khởi, bất năng ngoạ, tâm hạ tất kết”(但欲起,不能卧,心下必结) Nhưng muốn dậy, không thể nằm, kết ở tâm hạ, đây là bệnh ǵ?, “thử bản hữu hàn phận dă”(此本有寒分也), ở đây “本” (bản) là ban sơ là lúc đầu, là trước đây, hiện tại chúng ta đang nói về bệnh cũ, người này trước khi bị bệnh ở kinh Thái dương, vốn đă có hàn phận, “hàn” chính là một loại thuỷ ẩm, người này bên trong có thuỷ ẩm, tà của thuỷ ẩm gọi là “hàn”. Trương Trọng Cảnh giảng về khí phận, thuỷ phận, hàn phận là thuật ngữ của thời đó, trong “Kim Quỹ Yếu lược” cũng có khí phận. Đây là một loại hàn ẩm, bên trong có ẩm, bên ngoài c̣n biểu tà, biểu tà chớm hoá nhiệt. “Phản hạ chi” (反下之), cần phải giải biểu, hoá ẩm, hiện tại chỉ thấy “tâm hạ kết, bất năng ngoạ, đăn dục khởi” (心下结,不能卧,但欲起)kết trong dạ dày, không thể nằm, chỉ muốn dậy, chỉ thấy trong lư, không thấy vấn đề biểu tà ở kinh Thái dương, v́ không nên tả hạ mà lại dùng phép tả hạ, nên gia thêm chữ “phản”. Việc tả hạ này tạo ra hai t́nh huống. Một là bệnh tà kết ở trên, hai là bệnh tà đi xuống dưới. Bệnh kết ở trên, “若利止,必作结胸” (Nhược lợi chỉ, tất tác kết hung) Sau khi đi tả, đến phân lỏng, chứng tiết tả ngừng, sau khi ngưng lại, nhiệt ngưng kết với thuỷ ẩm lúc đầu, nhiệt kết với thuỷ, v́ thế “必作结胸” (tất tác kết hung) tất thành chứng kết hung.
Đây là kết ở trên, nếu nhiệt thuận theo tả hạ đi xuống dưới, chưa kết tụ với thuỷ ở trên, th́ không thành chứng kết hung, v́ thế chứng tiêu chảy chưa ngừng, sau khi dùng phép tả hạ, tác dụng tả hạ chưa dừng lại. V́ là ngày thứ hai hoặc thứ ba, sau khi dùng phép tả hạ ba ngày, đến đầu ngày thứ tư đại tiện c̣n “复又下利” (phục hựu hạ lợi) là lại tiếp tục đi tả, đại tiện không ngừng, “此作协热利也” (thử tác hiệp nhiệt lợi dă), đây gọi là “hiệp nhiệt lợi”(tiết tả kèm theo nhiệt). Tại sao gọi là “hiệp nhiệt lợi”? Chính là hợp với biểu tà mà gây ra chứng tiết tả. Đây là những nhận thức, lư giải của người viết. Hiểu như thế nào nếu nói “mạch vi nhược giả, thử bản hữu hàn phận dă” (脉微弱者,此本有寒分也) , kết hợp “mạch vi nhược”và “hàn phận” vào chung một câu th́ chúng không có nghĩa.
“Mạch vi nhược” là hư hàn, tả hạ làm sao có thể có chứng kết hung? Không hợp lư, không thể tưởng tượng được. Đây là cách giải thích của một số nhà chú giải, người viết không đồng t́nh. V́ thế đây là “Thái dương bệnh, nhị tam nhật, mạch vi nhược giả” (太阳病,三三日,脉微弱者)Là nói về hàn tà có khuynh hướng hoá nhiệt, mạch từ khẩn biến thành vi nhược, vi nhược chính là nói một cách tương đối, mạch đă không khẩn, “脉微弱者,此无阳也” (mạch vi nhược giả, thử vô dương dă) mạch vi nhược là mạch vô dương, ư là như vậy.
Điều này phản ánh vấn đề ǵ? Ư nghĩa của bài viết này là ǵ? Chứng kết hung vốn đă có thuỷ ẩm, chính là, “本有寒分也” (bản hữu hàn phận dă) ban đầu đă có thuỷ ẩm, v́ thế sau khi ngộ hạ chính là nhất bá tức hợp (là một điểm nhấn tạo bệnh). Có điểm khác biệt với cách nói ở trên, không tồn tại cái gọi là “bản hữu hàn phận” Thái dương bệnh sau khi ngộ hạ cũng được, hoặc giả sau khi kinh Thái dương bị bệnh một số ngày cũng thế, nhiệt kết với thuỷ, đây chính gốc ban đầu của bệnh, “bản hữu hàn phận” (本有寒分)là vốn có thuỷ ẩm. Có một ư khác là bệnh này không thể dùng phép tả hạ, tuy nhiên là “bất năng ngoạ, đăn dục khởi, tâm hạ tất kết”(不能卧,但欲起,心下必结) là không thể nằm, chỉ muốn dậy, ngưng kết ở tâm hạ, v́ biểu tà của kinh Thái dương chưa giải, không thể “hạ chi thái tảo”(下之太早) dùng phép tả hạ là quá sớm, dùng phép hạ quá sớm không tạo thành chứng kết hung mà chính là chứng hiệp nhiệt lợi (chứng tiết tả có nhiệt). Đây chính là lư giải của cá nhân người viết.
140 太阳病下之,其脉促,不结胸者,此为欲解也。脉浮者,必结胸也;脉紧者,必咽痛;脉弦者,必两胁拘急;脉细数者,头痛未止;脉沉紧者,必欲呕;脉沉滑者,协热利;脉浮滑者,必下血。C148
140 Thái dương bệnh hạ chi, kỳ mạch xúc, bất kết hung giả, thử vi dục giải dă. Mạch phù giả, tất kết hung dă; Mạch khẩn giả, tất yết thống; Mạch huyền giả, tất lưỡng hiếp câu cấp; Mạch tế sác giả, đầu thống vị chỉ; Mạch trầm khẩn giả, tất dục ẩu; Mạch trầm hoạt giả, hiệp nhiệt lợi; Mạch phù hoạt giả, tất hạ huyết. C148
Đây là đoạn văn thảo luận về bệnh ở kinh Thái dương sau khi ngộ hạ, phương pháp “Dĩ mạch trắc chứng”(以脉测证). “Dĩ mạch trắc chứng” (dùng mạch suy đoán chứng bệnh) là t́nh huống thường gặp trong “Thương Hàn Luận”, nhưng “以脉测证” (dĩ mạch trắc chứng) và “以脉定证” (dĩ mạch định chứng) dùng mạch định chứng là không giống nhau. V́ sao gọi là “dĩ mạch định chứng”? Một người bị bệnh, t́m hiểu là bệnh ǵ? Bằng cách thiết mạch, “脉浮者,病在表也” (mạch phù giả, bệnh tại biểu dă) thấy mạch phù là bệnh tại biểu, bất luận như thế nào, “mạch phù giả, bệnh tại biểu dă, đương tiên phát hăn, dữ Quế chi thang”(脉浮者,病在表也,当先发汗,与桂枝汤) Mạch phù là bệnh tại biểu, trước tiên nên phát hăn, dùng thang Quế chi, nên phát hăn trước, đó là “dĩ mạch định chứng”(以脉定证) dùng mạch để xác định chứng, là vấn đề của tính cương lĩnh. Như vậy mạch có tác dụng chủ yếu, trong biện chứng gọi là “舍证从脉” (Xá chứng ṭng mạch) bỏ chứng theo mạch, lấy mạch làm chủ. Hiện nay, trong điều này gọi là “Dĩ mạch trắc chứng”(以脉测证), thông qua suy luận, và tính chỉ đạo th́ khác biệt với “以脉定证” (dĩ mạch định chứng). Tại sao? Ở đây viết những ǵ, “tất kết hung”(必结胸) sẽ kết hung, “tất lưỡng hiếp câu cấp”(必两胁拘急) co rút hai bên sườn, “tất dục ẩu”(必欲呕) tất muốn nôn, nếu đọc kỹ, có lúc không phù hợp với ư nghĩa thực tế. Có rất nhiều phương pháp để giải thích điều này, dựa theo nguyên văn tuy có thể giải thích, nhưng có phần khiên cưỡng, không tự nhiên; 《Y tông kim giám》sửa một số từ, đề xuất được một số quan điểm, và như vậy bài viết này khi được giải thích lại, đọc lại và nghiên cứu lại th́ sẽ dễ dàng được tiếp nhận và dễ hiểu hơn. V́ vậy, khi thảo luận về bài viết hôm nay, chúng tôi sẽ chủ yếu tập trung vào quan điểm của 《Y tông kim giám》.
“Thái dương bệnh hạ chi, kỳ mạch xúc, (‘xúc’ đổi thành chữ ‘phù’)bất kết hung giả, thử vi dục giải dă. Mạch phù giả(‘phù’ đổi thành ‘xúc’, cả hai đảo ngược qua lại), tất kết hung dă; Mạch khẩn giả(‘khẩn’đổi thành ‘tế sác’), tất yết thống; Mạch huyền giả, tất lưỡng hiếp câu cấp; Mạch tế sác giả(‘tế sác’ đổi thành chữ ‘khẩn’), đầu thống vị chỉ; Mạch trầm khẩn giả, tất dục ẩu; Mạch trầm hoạt giả, hiệp nhiệt lợi; Mạch phù hoạt giả(‘phù hoạt’ đổi thành ‘hoạt sác’), tất hạ huyết.” (太阳病,下之,其脉促(‘促’改‘浮’字),不结胸者,此为欲解也。脉浮者(‘浮’改‘促’,两个颠倒过来),必结胸也;脉紧者(‘紧’改‘细数’),必咽痛;脉弦者,必两胁拘急;脉细数者(‘细数’改‘紧’字),头痛未止;脉沉紧者,必欲呕; 脉沉滑者,协热利;脉浮滑者(‘浮滑’改为‘滑数’),必下血。) Theo những di chuyển trong《Y tông kim giám》việc t́m hiểu trở nên khá dễ dàng. Bệnh ở kinh Thái dương sau khi ngộ hạ, có rất nhiều biến hoá, mang lại rất nhiều hệ luỵ, phần dưới đây chính là “dĩ mạch trắc chứng” (以脉测证)là theo mạch để suy đoán chứng. “Thái dương bệnh, hạ chi hậu, kỳ mạch phù” (太阳病,下之后,其脉浮), mạch phù có ư nói bệnh ở kinh Thái dương sau khi hạ, khí xung lên trên, chính là bệnh tà chưa nhập vào trong, v́ thế nó không tạo thành chứng kết hung, “bất kết hung giả” (不结胸者). Có thể thấy lực của biểu tà không quá mạnh, “vị dục giải dă”, mạch phù là bệnh c̣n ở biểu, bệnh này có hy vọng muốn được giải trừ.
“Vị dục giải” (未欲解) là chưa muốn giải, cũng không phải là đă tốt, biểu tà rất nhẹ, bệnh tà của Thái dương c̣n có thể hướng lên trên, hướng ra ngoài, cho nên bệnh này không quá tệ hại. “Nhược mạch xúc giả” (若脉促者), sau khi ngộ hạ, nếu mạch xúc mà hữu lực, với chúng ta, bệnh ở kinh Thái dương sau khi tả hạ, “mạch xúc hung măn giả” (脉促胸满者)Mạch xúc và đầy tức ngực, sự khác biệt ở đây là “xúc nhi vô lực”(mạch xúc mà vô lực), đây là mạch xúc, mạch đập có lực, là dương nhiệt rất mạnh, tà khí sắp nhập vào trong (lư), nói rằng “tất kết hung dă” (必结胸也)là sẽ kết hung, xét từ diễn biến này, sợ rằng sẽ phát sinh chứng kết hung, nhiệt kết với thuỷ. Nếu “mạch kiến tế sác” (脉见细数)thấy mạch tế sác, chính là âm bị tổn thương, “tế” là âm bị tổn thương, “Sác” là có nhiệt, người này cổ họng bị đau, âm đă tổn thương, tân dịch của Thiếu âm đă bị tổn hai, kinh mạch của Thiếu âm đi vào răng, v́ thế họng bị đau, có chứng hư nhiệt. “Mạch huyền giả”( 脉弦者), là đă xuất hiện mạch của kinh Thiếu dương, v́ thế “tất lưỡng hiếp câu cấp” (必两胁拘急)là co thắt ở hai cạnh sườn, mạch Thiếu dương bất hoà, ngực sườn sẽ bị co thắt. “Nhược mạch khẩn giả” (若脉紧者)nếu mạch c̣n thấy khẩn, “khẩn” chủ về lạnh, biểu hàn không được trừ khứ, chứng đau đầu chưa dứt, v́ chứng biểu hàn vẫn c̣n. Nếu như “Mạch trầm khẩn”, hàn tà đă nhập vào trong, lư đă có hàn, có hàn trong dạ dày, vị khí nghịch lên sẽ gây ẩu thổ “dục ẩu”( 欲呕). Nếu “Mạch kiến trầm hoạt”(脉见沉滑), “hoạt” (滑) là chủ về nhiệt, biểu tà ngộ hạ mà thấy mạch trầm hoạt, chính là tất yếu “hiệp nhiệt lợi” (协热利)là tiết tả hiệp nhiệt. Nếu như “Mạch kiến hoạt sác” (脉见滑数), thấy mạch hoạt sác, là biểu hiện của nhiệt bên trong (lư nhiệt), nhiệt tổn thương âm lạc, đại tiện sẽ ra máu. V́ thế điều này chính là phương pháp “Dĩ mạch trắc chứng” (以脉测证)Dùng mạch suy đoán bệnh chứng, cũng không quá phức tạp để hiểu, chỉ cần nắm vững tinh thần chung, dựa theo ư kiến trong《Y tông kim giám》, điều chỉnh một số từ th́ sẽ dễ dàng lư giải.
141 病在阳,应以汗解之,反以冷水潠之,若灌之,其热被劫不得去,弥更益烦,肉上粟起,意欲饮水,反不渴者,服文蛤散。若不差者,与五苓散。寒实结胸,无热证者,与三物小陷胸汤,白散亦可服。 C149
141 Bệnh tại dương, ứng dĩ hăn giải chi, phản dĩ lănh thuỷ quán chi, nhược quán chi, kỳ nhiệt bị khước bất đắc khứ, di canh ích phiền, nhục thượng túc khởi, ư dục ẩm thuỷ, phản bất khát giả, phục Văn cáp tán. Nhược bất sai giả, dữ Ngũ linh tán. Hàn thực kết hung, vô nhiệt chứng giả, dữ Tam vật tiểu hăm hung thang, Bạch tán diệc khả phục. C149
Văn cáp tán phương
Thuỷ tốn nguyên du hăn pháp môn
Nhục trung túc khởi cánh tăng phiền
Ư dục ẩm thuỷ hoàn bất khát
Văn cáp ma điều dược bất phồn
Tán bột 5 lạng Văn cáp, dùng 5 hợp nước sôi hoà một th́a thuốc bột để uống,
Bạch Tán phương
Ba đậu ngao lai nghiền tự chi
Chỉ tu nhất phân thốn thành quy
Cát cánh Bối mẫu các tam phân
Hàn thực kết hung chúc nhất bôi
Cát cánh 3 phân Ba đậu 1 phân, bỏ vỏ và lơi, sao đen nghiền ra như dầu mỡ Bối mẫu 3 phân, tán nhỏ ba vị trên, cho ba đậu vào cối giă nhỏ, uống với nước. Người khoẻ mạnh uống ½ tiền, người yếu giảm lượng thuốc xuống. Nếu bệnh ở phía trên hoành cách th́ bệnh nhân sẽ thổ, nếu ở dưới sẽ tiết tả, không tiết tả th́ cho bệnh nhân ăn một chén cháo nóng, nếu tiết tả không ngừng th́ cho bệnh nhân ăn một chén cháo nguội. Thân thể nóng, b́ mễ(Một loại mụn nước trên da) không hết, muốn dùng quần áo để che, nếu dùng nước để phun, lau rửa, làm cho nhiệt không xuất được, cần xuất hăn mà không xuất được khiến bệnh nhân khó chịu. Giả như đă xuất mồ hôi, bệnh nhân đau bụng, với 3 lạng Bạch thược như phép trên.
Điều này so sánh chứng kết hung với thuỷ kết ở biểu với thuỷ kết ở lư, chứng kết hung thực hàn với chứng kết hung thực nhiệt, để thể hiện chứng thuỷ kết có các loại h́nh biểu, lư, hàn, nhiệt khác nhau.
Trong đoạn văn “Tiểu hăm hung thang” (小陷胸汤)và “diệc khả phục” (亦可服)đều là câu văn thừa. Ư của đoạn văn này chủ yếu thảo luận về chứng thuỷ kết ở biểu. Chứng kết hung chính là nhiệt và thuỷ kết tại lư, ở đây chính là kết tại biểu, đây là một câu thừa.
Ư thứ hai là luận về chứng kết hung hàn thực, kết hung hàn thực và kết hung thực nhiệt được dùng để so sánh. Đồng thời, điều này cũng đề xuất vấn đề thuỷ liệu, trước đây chúng ta đă nói đến hoả liệu, ở đây nói về thuỷ liệu (phép điều trị bằng nước), đều thuộc liệu pháp vật lư cổ đại. “Bệnh tại dương”(病在阳), “dương” là chỉ về biểu, nên phát nhiệt ố hàn (Phát sốt ghét lạnh). “Ứng dĩ hăn giải chi”(应以汗解之) nên dùng phép phát hăn để giải trừ biểu tà. “Phản dĩ lănh thuỷ quán chi”(反以冷水潠之,若灌之), Lại dùng nước lạnh để phun tưới “Nhược quán chi” (若灌之)là tưới nước, có ư là gột rửa, là phương pháp dùng nước lạnh để hạ nhiệt. V́ đây là một người đang phát sốt, v́ thế việc dùng nước lạnh để hạ nhiệt là một phương pháp không chính xác, v́ thế trong câu có chữ “phản”. Kết quả là “kỳ nhiệt bị khước”(其热被却), khi dùng nước lạnh phun rửa, tạm thời nhiệt bị đẩy lùi, trong bản họ Triệu viết, lúc này nhiệt có thể hạ một chút, nhưng chính là không thể giải quyết tận gốc, v́ thế “不得去” (bất đắc khứ) không trừ hết, t́nh trạng nhiệt này không thể trị liệu triệt để (bằng thuỷ liệu).
“弥更益烦” (Di cánh ích phiền) làm cho rắc rối hơn, sau khi điều trị bằng thuỷ liệu, chứng phát sốt chẳng những không tốt mà c̣n tệ hơn trước, Trương Trọng Cảnh dùng 3 từ h́nh dung cho thấy phát nhiệt rất nghiêm trọng, không b́nh thường. “Di phiền” nhiệt không bị đẩy lùi, tóm lại phương trị liệu bằng rẩy nước, tưới nước làm cho t́nh trạng bệnh phức tạp hơn đă được mô tả bằng các từ “di canh ích phiền” sốt nghiêm trọng hơn, đây là nhiệt bị bế uất, bị nước lạnh kích thích, da lông thớ thịt thu liễm (khép lại), nhiệt không xuất ra được, “肉上粟起” (nhục thượng mễ khởi), “nhục” là trên da thịt, mọc lên những hạt nước như hạt gạo, là ǵ? Là do bị lạnh, do phun vẩy nước, hàn ngưng trệ bên ngoài, nhiệt uất ở trong, v́ thế trên da thịt xuất hiện những mụn nước như hạt gạo, “nhục thượng mễ khởi” là đại biểu hàn lănh, “di cánh ích phiền”là nói về không hạ nhiệt, ngược lại tăng nặng hơn, v́ thế chứng phát nhiệt này rất tệ hại. “Ư dục ẩm thuỷ, phản bất khát giả”(意欲饮水,反不渴者), “ư dục”(意欲) là “想” (tưởng) là nghĩ đến muốn uống nước nhưng không khát nên không uống được điều này phản ảnh nhiệt bị đẩy lùi lại, c̣n ở biểu, chưa hoàn toàn nhập lư, thể biểu thái dương có thuỷ dịch. Khi vào tam tiêu, bàng quang th́ tấu lư sẽ không hề có phản ứng, v́ thế, thuỷ dịch của tam tiêu và bàng quang ở thể biểu, gọi là như tưới sương sa vậy.
Hiện tại nhiệt bị uất bế, hàn cũng ngưng tụ, tân dịch và thể dịch của thể biểu cũng không tán, nó tŕnh hiện như một dạng bệnh lư biến hoá. Nhiệt và thuỷ hoàn toàn ở biểu, mà không hoàn toàn nhập lư, chứng trạng chính là tưởng cần uống nước, mà không muốn uống nước, chứng trạng này và biểu chứng của Ngũ linh tán không giải, tiểu tiện không thuận lợi, bàng quang tích trữ nước, nhẹ hơn chứng tiêu khát. Giải quyết như thế nào? “Phục Văn cáp tán” (服文蛤散)Văn cáp tán có tác dụng thanh trừ dương nhiệt uất tại biểu, lại có thể vận hành nước ở dưới da, rất thích hợp đối với chứng trạng này. “若不差者” (Nhược bất sai giả), nếu uống Văn cáp tán mà bệnh biến chuyển tốt là bệnh nhẹ, nếu không biến chuyển tốt th́ đây là bệnh nặng, cho thấy thuỷ và dượng nhiệt uất kết nghiêm trọng. lực thuốc của Văn cáp tán là khá nhẹ so với bệnh, ư tại ngôn ngoại, có thể bệnh nhân này không phải là “Ư dục ẩm thuỷ, phản bất khát giả” (意欲饮水,反不渴者) ư muốn uống nhưng không khát, cũng có thể có các chứng trạng như tâm phiền, khát nước, tiểu tiện bất lợi, khả năng có một số t́nh huống của Thái dương súc thuỷ (nước đ́nh tích ở Thái dương), bệnh nặng thuốc nhẹ, nên “dữ Ngũ linh tán” (与五苓散). Ngũ linh tán có khả năng phát hăn, lại có thể lợi tiểu tiện, có thể giải quyết bệnh tà tại Thái dương kinh phủ, bệnh sẽ biến chuyết tốt. Chứng trạng của Văn cáp tán là nhiệt bị chặn lại mà không hết “Nhục thượng túc khởi”(肉上粟起) trên da mọc mụn nước, là dương khí trên da bị lănh thuỷ (nước lạnh) kích thích, dương khí bế uất, thuỷ uất lại ở dưới da, đương nhiên bệnh nhân này cũng không xuất mồ hôi, và không hạ sốt, trên da c̣n có một số “túc khởi”(mụn nước), đây chính là một số chứng trạng tại biểu.
Có hai loại ư kiến liên quan đến Văn cáp tán, Kha Vận Bá trong Thương hàn lai tô tập cho rằng phương thuốc này chính là Văn cáp tán trong thiên “Ẩu thổ uế hạ lợi”( 呕吐哕下利) của Kim quỹ yếu lược, trong “Tiêu khát” cũng có Văn cáp tán, là Ma hạnh cam cao thang gia Sinh khương, Đại táo, lại gia Văn cáp, thành phần gồm 7 vị thuốc, có tác dụng phát hăn giải biểu nhẹ. Người viết cho rằng đây là vấn đề cần xem xét, tại sao? V́ theo góc độ bài viết; Chính là một chứng hai phương, cũng giống như chúng ta trước dùng phương Tiểu kiến trung, sau đó dùng phương Tiểu sài hồ, cũng là một chứng hai phương. Ở đây là “nhược bất sai, dữ Ngũ linh tán”, bệnh có nặng có nhẹ, phương dược cũng vậy, xét từ cách viết này, ở đây không phải phải là Văn cáp thang gồm Ma hạnh cam cao thang gia khương, táo gia Văn cáp. Vẫn là Văn cáp tán với một vị là văn cáp, đây là con ngao dưới biển trên đầu có vân gọi là Văn cáp. Văn cáp có vị mặn, tính hàn, có hai tác dụng chủ yếu, một là vận hành kinh phế, trị ho, suyễn phiền muộn, có tác dụng lợi phế trừ đàm; Thứ hai là tác dụng lợi tiểu, trị chứng phù thũng, hành thuỷ khí, trên thực tế là một tác dụng, một là trị phế, một là trị thuỷ, một là khai thuỷ ở trên, trừ đàm, trị phế khí thượng nghịch, ở dưới là lợi tiểu, thông lợi tam tiêu, v́ thế có thể trị thuỷ thũng. Chứng này do dương khí bế uất khiến thuỷ dịch đ́nh trệ dưới da, v́ thế bên ngoài không có mồ hôi, bên trong sốt cao không hạ, muốn uống nước mà không thể uống, bệnh tà thuỷ nhiệt ở biểu, c̣n chưa hoàn toàn nhập vào trong (lư), đầu tiên cho uống Văn cáp tán; Nếu bàng quang khí hoá bất lợi, tiểu tiện bất lợi, nếu khát cần phải uống Ngũ linh tán, đây chính là một chứng hai phương, có nhẹ có nặng.
“Hàn thực kết hung, vô nhiệt chứng giả”(寒实结胸,无热证者), “Hàn thực” (寒实) là một loại đàm ẩm (đàm dăi) do hàn thuỷ khí lạnh ngưng kết lại, những vật chất này ngưng tụ trong ngực, dưới tim, khiến cho tâm dương bị ảnh hưởng, xuất hiện ngực bị đau, bế tắc, thậm chí c̣n bị loét, đây gọi là chứng hàn thực kết hung. Hàn thực ngưng kết ở ngực và thực nhiệt kết ở ngực không giống nhau, đó là nhiệt kết với thuỷ, đây là hàn lănh ngưng kết với đàm thuỷ, v́ thế nó cũng có biểu hiện đau, cũng bĩ cứng, thậm chí c̣n bị ho suyễn, phân biệt của hai chứng này ở điểm nào? “无热证者” (Vô nhiệt chứng giả) chứng hàn thực kết hung không phiền khát, không phát sốt và các nhiệt chứng của nhiệt thực kết hung, không có nhiệt chứng không giống như không có thực chứng. Thí dụ như nói về mạch, mạch của chứng đại kết hung chính là mạch trầm khẩn, mạch của hàn thực kết hung cũng là trầm khẩn hữu lực, không phải là mạch hư chứng, trầm tŕ hay trầm nhược là mạch của chứng tạng kết. Tuy hàn nhiệt khác nhau, nhưng trên phương diện tà thực lại giống nhau, v́ thế mạch chính là trầm khẩn, lại có đại tiện không thông (bí kết) cho nên gọi là thực chứng. “Vô nhiệt”, đây là thực chứng mà không phải là hư chứng. Bệnh này cho bệnh nhân uống Đại hăm hung thang là không đúng, Đại hăm hung thang dùng trong trường hợp nhiệt kết với thuỷ, là Đại hoàng, Mang tiêu, Cam toại, đây chính là hàn đàm thuỷ lănh ngưng tụ gây trở ngại cho dương khí của lồng ngực và tim, Đại hăm hung thang dùng ở đây là không thích hợp.
Vậy phải làm thế nào? Dùng Tam vật bạch tán. Thành phần Tam vật bạch tán gồm ba vị thuốc là Cát cánh, Ba đậu, Bối mẫu, v́ thế gọi là tam vật. Không thể đại tiện, đại tiện b́nh thường th́ không uống Tam vật bạch tán. Trong ba vị thuốc của Tam vị bạch tán, Ba đậu là vị thuốc cay nóng có độc, có khả năng công trục hàn tính thuỷ ẩm đàm thấp ngưng kết. Từ xưa có câu nói, Ba đậu không bỏ dầu (trừ bỏ chất dầu trong vị Ba đậu), lực thuốc mạnh như trâu “lực đại như lăo ngưu” (力大如老牛), không nên loại bỏ chất dầu trong vị Ba đậu, lực của nó như con trâu, rất mạnh mẽ. Bối mẫu và Cát cánh, một vị có tác dụng khai kết, một vị có tác dụng khai mở phế khí. Bối mẫu là vị thuốc có tác dụng khải mở tà khí ngưng kết, trị chứng khí kết trong lồng ngực, lại có tác dụng hoá đàm hành thuỷ. Cát cánh đi vào khí phận, có thể khai đề (nâng) phế khí. Phế khí thuận lợi, khí kết ở ngực cũng được khai mở, thêm lực nhiệt tính của Ba đậu công hàn trục thuỷ có thể bài xuất nhất thiết hàn thấp, hàn lănh thuỷ ẩm ra ngoài cơ thể. Bài thuốc này c̣n có tác dụng trên hai phương diện, “不吐即下” (bất thổ tức hạ), bệnh ở trên th́ thổ ra, bệnh ở dưới hoành cách th́ tả hạ. Sau khi uống thuốc, bệnh nhân có thể thổ, có thể tả hạ, cũng có thể là cả hai, bệnh sẽ biến chuyển tốt.
Thang thuốc này rất mạnh mẽ, khi sử dụng cần chú ư. “Thượng tam vị, vi mạt, nội Ba đậu, cánh vu cữu trung chử chi, dĩ bạch ẩm hoà phục”(上三味,为末,内巴豆,更于臼中杵之,以白饮和服) ba vị thuốc trên, tán bột, cho vị Ba đậu vào cối giă mịn “Bạch mễ thang” (nước cháo gạo), tại sao lại uống thuốc với nước cháo? V́ cháo có thể hoà vị, có thể phần nào tiết chế độc tính của Ba đậu. “Cường nhân bán tiền, luy giả giảm chi”(强人半钱,羸者减之) người mạnh khoẻ uống ½ tiền, người gầy yếu giảm bớt, bán tiền là bao nhiêu so với hiện tại? Vào khoảng 3 phân, thân thể hơi kém uống khoảng 2 phân hoặc 1,5 phân. Sau khi uống c̣n có một điều kiện, “Bệnh tại cách thượng tất thổ, tại cách hạ tất lợi” (病在膈上必吐,在膈下必利). Bệnh ở trên hoành cách bệnh nhân sẽ ẩu thổ, bệnh ở dưới hoành cách bệnh nhân sẽ tiết tả. Nếu như không tiết tả, “tiến nhiệt chúc nhất bôi” (进热粥—杯) ăn một chén cháo nóng, uống một chén cháo nóng; Nếu như, “lợi quá bất chỉ”(利过不止) tiết tả quá nhiều không cầm, “Tiến lănh chúc nhất bôi”(进冷粥一杯) uống một chén cháo nguội. V́ vị Ba đậu nóng và có độc, khi uống cháo nóng sẽ tăng cường sức mạnh của Ba đậu. Nếu tiết tả quá nhiều, uống cháo nguội sẽ có tác dụng hoăn giải sức mạnh của vị Ba đậu, đồng thời cháo có tác dụng dưỡng vị khí. Trong quá khứ khi uống Ba đậu, uống nhầm Ba đậu, sau khi uống bệnh nhân sẽ đi tả, khi đó sẽ làm ǵ? Chính là uống nước lạnh, uống nước lạnh trong giếng, sau khi uống có thể giảm bớt chứng đi tả. Sau khi chứng đi tả đă ngừng, đôi khi có mụn nước trong khoé miệng hoặc niêm mạc miệng, vị thuốc này rất nóng.
Câu bên dưới “Thân nhiệt b́ mễ bất khởi”(身热皮粟不起) là không cần thiết, là câu nói thừa, Ngọc hàm, Ngoại đài, Tiền Hoàng bản, Kha Vận Bá đều lược bỏ, chúng ta cũng lược bỏ phần này.
Tam vật bạch tán trị chứng hàn thực kết hung. Chứng Kết hung đến đây là hoàn tất.
Chứng Kết hung có tiểu kết hung, có khi ở trên, có khi ở giữa, có khi từ tâm hạ xuống đến bụng dưới, cứng đầy đau không thể chạm vào, trị liệu có Đại hăm hung thang, có Tiểu hăm hung thang, chứng tiểu kết hung, bệnh ở tâm hạ, ấn vào thấy đau, mạch phù hoạt “Tiểu hăm hung thang chủ chi” thang Tiểu hăm hung trị bệnh này, v́ thế kết hung có đại có tiểu, đại tiểu chính là nặng nhẹ; Có hàn có nhiệt, hàn thực kết hung, nhiệt thực kết hung; C̣n có biểu có lư, thuỷ tại lư, nhiệt kết với thuỷ, gọi là kết hung, ở bên ngoài tựa như Văn cáp tán chứng, sốt không hạ, “弥更益烦” (di cánh ích phiền) càng tệ hơn, ư muốn uống nước, nhưng không khát, đây chính là nước ở thể biểu.
Có phải chỉ là một số chứng trạng? Với chủ yếu là phát sốt, thân thể không thoải mái, đau ê ẩm khó chịu, nó có nước, v́ thế trước tiên dùng Văn cáp tán, văn cáp tán là một vị thuốc, lực thuốc nhẹ nhàng, bệnh nhẹ uống vào sẽ có tác dụng. Nếu như bệnh nhân khát nước, cộng thêm tiểu tiện bất lợi, không hạ sốt, nên cho uống Ngũ linh tán. Nhứng vấn đề lâm sàng phải nắm vững của chứng hàn thực kết hung, bệnh nhân không thể đại tiện, có thể đại tiện th́ không uống Tam vật bạch tán. V́ bệnh là thực, nhưng hàn nhiệt khác biệt, thực chứng là giống nhau, không phải là hư chứng, là thực chứng v́ thế mạch trầm khẩn, đại tiện không thông th́ có thể uống Tam vật bạch tán, và đây chính là điểm then chốt.

Trường Xuân Ng.Nghị
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-12-13 21:48:15
Từ điều 142 đến 146
142 太阳与少阳并病,头项强痛,或眩冒,时如结胸,心下痞硬者,当刺大椎第一间、肺俞、肝俞,慎不可发汗,发汗则谵语。脉弦,五六日,谵语不止,当刺期门。C150
142 Thái dương dữ Thiếu dương tính bệnh, đầu hạng cường thống, hoặc huyễn mạo, thời như kết hung, tâm hạ bĩ ngạnh giả, đương thích Đại chuy đệ nhất gian, Phế du, Can du, thận bất khả phát hăn, phát hăn tất chiêm ngữ. Mạch huyền, ngũ lục nhật, chiêm ngữ bất chỉ, đương thích Kỳ môn. C150
Đoạn văn tŕnh bày hai kinhThái dương và Thiếu dương cùng bị bệnh, tương tự như chứng kết hung, dùng phép châm thích để điều trị, chưa dùng đến thuốc thang. Tại sao bệnh này cần dùng phép châm thích? V́ vấn đề bệnh của kinh Thiếu dương không được phép phát hăn, Thiếu dương chính là cấm phát hăn, cấm dùng phép tả hạ, v́ thế Trương Trọng Cảnh dùng phép châm thích điều trị bệnh thay thế cho thang dược.
Thái dương và Thiếu dương cùng bị bệnh, là Thái dương bị bệnh trước, sau đó là Thiếu dương bị bệnh, gọi là cùng bị bệnh (tính bệnh). Là bệnh có thứ tự trước sau. Chứng trạng gồm “Đầu hạng cường thống”(头项强痛) đầu gáy cứng đau và “huyễn mạo”(眩冒) huyễn là hoa mắt váng đầu, mạo là đầu óc tối tăm, “Đầu hạng cường thống” (đầu gáy cứng đau) là bệnh ở kinh Thái dương chưa được giải trừ, hoặc xuất hiện “huyễn mạo” (huyễn là hoa mắt váng đầu, mạo là đầu óc tối tăm) chính là chứng trạng của Thiếu dương bệnh, “Thiếu dương chi vi bệnh, khẩu khổ yết can, mục huyễn dă”(少阳之为病,口苦咽干,目眩也)Bệnh ở kinh Thiếu dương, họng khô miệng đắng và hoa mắt, huyễn mạo là chứng trạng của thiếu dương bệnh. Khí Thiếu dương bất hoà không thể sơ tiết, v́ thế “Thời như kết hung, tâm hạ bĩ ngạnh giả”(时如结胸,心下痞硬者), bệnh nhân này tâm hạ bĩ ngạnh, dưới tim đầy cứng và bế tắc, có những lúc chứng trạng này trở nặng, giống như chứng kết hung, có thể đau, có những lúc chứng trạng nhẹ hơn. Lư do là ǵ? V́ Thái dương và Thiếu dương cùng bị bệnh, bệnh tà của Thiếu dương phân li ở giữa bán biểu bán lư, v́ thế khi bệnh tà hướng vào trong lư th́ sẽ giống như chứng kết hung, lúc bệnh tà hướng ra ngoài (biểu) th́ chứng trạng nhẹ hơn, v́ thế người xưa cho rằng đây là Thái Thiếu tính bệnh (Kinh Thái dương và Thiếu dương cùng bị bệnh) không thuần tuư là bệnh ở kinh Thiếu dương.
Có chứng trạng của kinh Thái dương, cũng có chứng trạng của kinh Thiếu dương, “Đương thích Đại chùy đệ nhất gian”(当刺大椎第一间),
‚ “đệ nhất gian”(第一间)chính là huyệt Đại chuỳ, “Đương thích Đại chuỳ hoà phế du”(当刺大椎和肺俞) hai huyệt này đều có khả năng giải trừ bệnh tà ở kinh Thái dương, huyệt Đại chuỳ ở chỗ lơm của đốt xương sống thứ nhất, huyệt Phế du ở bên cạnh đốt xương sống thứ ba cách 1 thốn 5 phân, phế hợp với biểu, Thái dương thuộc biểu, v́ thế có thể giải trừ bệnh tà ở Thái dương. Can du trừ khứ bệnh tà của kinh đảm, v́ can và đảm có quan hệ biểu lư, châm huyệt can du sẽ giải quyết được bệnh tà ở kinh Thiếu dương. Như vậy bệnh tà ở Thái dương đă giải trừ nên bệnh tà ở Thiếu dương cũng được giải trừ. “Thận bất khả phát hăn”( 慎不可发汗) thận trọng không thể phát hăn, không nên cho rằng có chứng trạng đầu gáy cứng đau là sẽ dùng hăn pháp, ngàn lần không nên làm như vậy, cần phải thận trọng. Tại sao? V́ “thời như kết hung” (时如结胸), “tâm hạ bĩ ngạnh” (心下痞硬) và “huyễn mạo” (眩冒) là bệnh có chứng trạng của kinh Thiếu dương, bệnh tà của kinh Thiếu dương không ở biểu, trị bệnh ở kinh Thái dương có thể phát hăn, nhưng trị bệnh ở kinh Thiếu dương không được phép phát hăn, nếu dùng nhầm phép phát hăn, không những không giải trừ được bệnh tà ở kinh Thiếu dương mà c̣n gây tổn thương tân dịch của vị, khiến bệnh tà của Thiếu dương từ cơ nhục mà khắc chế vị và phát sinh chứng nói sàm. Đây là phép cấm kỵ của kinh Thiếu dương. Chỉ cần xuất hiện chứng trạng của kinh Thiếu dương th́ không được phát hăn, cũng không được dùng phép tả hạ, cần phải “trị ṭng Thiếu dương”(治从少阳) điều trị theo bệnh ở kinh Thiếu dương. Tại sao vậy? v́ đây là vấn đề của Thiếu dương bệnh, nếu phát hăn Thiếu dương, bệnh nhân sẽ nói mê sảng. Tân dịch của vị bị tổn thương, vị bị khô ráo, nhiệt tà của Thiếu dương nhân cơ hội vị hư nhược mà xâm nhập v́ thế nên bệnh nhân nói sàm, vị khí bất hoà. “Mạch huyền” là mạch của Thiếu dương, đến ngày thứ 5 thứ sáu mà bệnh nhân vẫn nói mê không hết, lúc này có thể dùng phép tả hạ không? Vẫn không được. Tại sao không được dùng phép tả hạ? V́ mạch huyền thuộc chứng trạng của Thiếu dương, bệnh tà ở kinh Thiếu dương chưa được giải trừ th́ không thể tả hạ. Thiếu dương không những cấm hăn, c̣n cấm dùng phép tả hạ nữa.
“Đương thích Kỳ môn”(当刺期门), nên châm huyệt Kỳ môn, huyệt Kỳ môn là mộ huyệt của tạng Can. Châm Kỳ môn như thế nào? Dùng phép tả, “Tuỳ kỳ thực nhi tả chi”(随其实而泻之) (tả ở đây không phải là tả hạ mà là tả nhiệt có nghĩa là thanh nhiệt), theo thực chứng mà dùng thanh pháp, thanh nhiệt của kinh Đảm, Nhiệt của kinh đảm được giải trừ th́ bệnh nhân sẽ không nói mê sảng. V́ thế, câu này đă có những chứng trạng tương tự như chứng kết hung “thời như kết hung”(时如结胸), cũng cho thấy một đạo lư là bệnh ở kinh Thiếu dương cấm dùng phép phát hăn và phép tả hạ.
“Tam dương hợp bệnh, trị tại Thiếu dương” (三阳合病,治在少阳), phàm dương kinh bị bệnh, chỉ cần xuất hiện Thiếu dương chứng là có thể trị liệu Thiếu dương là chính, đây là nói về việc dùng thang dược. Tại sao như vậy? v́ đă liên quan đến Thiếu dương xu cơ (mấu chốt vận hành) bất lợi, không hoà giải mà lại phát hăn hay tả hạ th́ không có tác dụng ǵ, đồng thời hăn hạ sẽ gây tổn thương chính khí, dẫn đến hậu quả không tốt như mê sảng, hồi hộp sợ hăi, “hăn chiêm thổ hạ quư nhi kinh”(汗谵吐下悸而惊), phát hăn nói nhảm, thổ hạ gây hồi hộp sợ hăi, trường hợp bệnh nặng sẽ gây thổ hạ không ngừng “thuỷ tương bất nhập mệnh nan sinh”(水浆不入命难生) bệnh nặng không ăn uống được, nguy hại đến tính mạng. điều này nhất định phải ghi nhớ.
143 妇人中风,发热恶寒,经水适来,得之七日,热除而脉迟身凉,胸胁下满,如结胸状,谵语者,此为热入血室也,当刺期门,随其实而泻之。C151
143 Phụ nhân trúng phong, phát nhiệt ố hàn, kinh thuỷ thích lai, đắc chi thất bát nhật, nhiệt trừ nhi mạch tŕ thân lương, hung hiếp hạ măn, như kết hung trạng, chiêm ngữ giả, thử vi nhiệt nhập huyết thất dă, đương thích Kỳ môn, tuỳ kỳ thực nhi tả chi. C151
Điều này và hai điều kế tiếp đều thảo luận về chứng “Nhiệt nhập huyết thất”(热入血室) nhiệt nhập vào tử cung. V́ sao lại có thêm ba câu nói về “热入血室” (nhiệt nhập huyết thất) nhiệt nhập vào tử cung ở đây? Một nguyên nhân là chúng có chứng trạng tương tự như chứng kết hung, một nguyên nhân khác là chúng có liên quan đến kinh Thiếu dương. Bài viết của Trương thánh y có tính liên hệ nội tại, chứng kết hung nói về thuỷ kết, Thiếu dương nói về khí uất, như thế là phụ nữ trúng phong, thương hàn nhiệt nhập huyết thất, nói về huyết, từ huyết ảnh hưởng đến khí, cũng giảng về khí huyết bế kết, v́ thế quan hệ của thuỷ, của khí, của huyết, như vậy sự so sánh hỗ tương, phát huy hỗ tương, có thể nâng cao tư duy và tầm nh́n của chúng ta trong biện chứng luận trị, điều này rất có ư nghĩa.
Ở ba câu “Nhiệt nhập huyết thất” (热入血室) có nguyên nhân bệnh khác nhau, khi kinh nguyệt vừa đến, cũng có khi kinh nguyệt vừa dứt, đây là khác biệt thứ nhất. Khác biệt thứ hai là có phát sốt hay không, đây là điểm quan trọng cần ghi nhớ. Thứ ba là ngực sườn buồn bực, có hàn nhiệt văng lai, ban đêm nói mê sảng. Ba chứng trạng này khác nhau, trị liệu cũng khác nhau. Nắm vững ba điểm này, là đă hiểu được chứng nhiệt nhập huyết thất.
Nhiệt nhập huyết thất có liên quan với kinh nguyệt, chính là bệnh của phụ nữ, nam nhân không có bệnh này. Có người cho rằng người nam cũng có chứng nhiệt nhập huyết thất, đương nhiên vấn đề này cũng cần được chứng minh. Quan điểm của người viết cho rằng người nam không có chứng nhiệt nhập huyết thất. Trong thiên Dương minh có chứng nhiệt nhập huyết thất, không đề cập đến phụ nữ, vậy th́ là đàn ông sao? Trước mặt là nói về phụ nữ, phần sau c̣n tổng thuyết, ở đây không cần lặp lại, v́ thế nhiệt nhập huyết thất là bệnh của phụ nữ, không phải là bệnh của nam giới.
“Phụ nữ trúng phong, phát nhiệt ố hàn”(妇人中风,发热恶寒), đây là biểu chứng chưa giải trừ.
“Kinh thuỷ thích lai, đắc chi thất bát nhật”(经水适来,得之七八日) là một câu đảo ngữ, đặt câu “đắc chi thất bát nhật” lên trên, thời gian đă qua 7,8 ngày, là thời gian người phụ nữ này hành kinh “thích lai” là thời điểm đúng lúc hành kinh. Kinh nguyệt có đúng chu kỳ b́nh thường hay không? Điều này không thể nói chính xác được. Sơn Điền Chính Trân nói, kinh nguyệt đến không đúng kỳ, đến ngẫu nhiên, đều tính là “thích lai”, như vậy là không hạn chế theo chu kỳ. Kinh nguyệt đến, huyết thất trống rỗng (không hư), biểu tà phạm vào trong, nhiệt nhập vào huyết thất. Sau khi nhiệt nhập huyết thất, biểu chứng được giải, “nhiệt trừ nhi mạch tŕ thân lương”(热除而脉迟身凉), hạ sốt, mạch cũng không c̣n nhanh, mạch chậm lại, thân thể mát mẻ, đây là biểu tà đă được giải trừ. Nhưng biểu tà đă giải, lại có mạch tŕ, cho thấy có chút ngưng kết.
“Hung hiếp hạ măn, như kết hung trạng” (Ngực sườn trướng đầy, như chứng kết hung) đă xuất hiện lư chứng, ngực và sườn là vị trí của Thiếu dương, trướng đầy, có lúc c̣n đau, giống như chứng kết hung. “như kết hung” (如结胸) không có nghĩa là kết hung. “Chiêm ngữ giả” (谵语者), c̣n nói mê sảng. Đây là bệnh ǵ? Làm thế nào để hạ nhiệt? Tựa như chứng kết hung? V́ sao lại nói mê sảng? “Thử vi nhiệt nhập huyết thất dă”(此为热入血室也), bệnh này được gọi là nhiệt nhập huyết thất, là thừa dịp sau khi hành kinh huyết thất trống không, huyết nhiệt sẽ truyền vào huyết thất. Vậy huyết thất là ǵ? Điều này có sự tranh luận, rất nhiều thuyết, chúng tôi đồng ư rằng huyết thất chính tử cung, cũng là bào cung, tại sao lại xuất hiện chứng trạng trướng đầy ở ngực sườn tương tự “như kết hung trạng”(如结胸状)? V́ bào cung của phụ nữ có liên quan với can kinh và khí của can đảm, “Túc âm quyết mạch can sở trung, đại chỉ chỉ đoan mao tế tùng, hoàn nhiễu âm khí để tiểu phúc, hiệp can lạc đảm”(厥阴足脉肝所中,大趾趾端毛际丛,环绕阴器抵小腹,挟肝络胆) Túc quyết âm là mạch của tạng can, từ đám lông ở ngón chân cái, quấn quanh âm khí ngang với bụng dưới ôm lấy gan mật, bào cung thụ tà,trong huyết thất có tà nhiệt ảnh hưởng khí bất ḥa của can đảm, trên thực tế là khí của can đảm sơ tiết không thuận lợi. v́ thế sẽ xuất hiện
“hung hiếp hạ măn, như kết hung trạng”(胸胁下满,如结胸状) trướng đầy dưới ngực sườn như bệnh kết hung, là bệnh của huyết đă ảnh hưởng đến t́nh trạng sơ tiết không thuận lợi của khí can đảm.
V́ sao bệnh nhân nói sảng? Nói sảng, nói vô nghĩa trong “Thương Hàn Luận” thường chỉ về bệnh ở kinh dương minh, lạc của vị thông vào tim, vị (dạ dày) bị táo nhiệt bn sẽ nói hàm hồ vô nghĩa, chỉ khi nào bệnh nhân nói sảng do nhiệt nhập huyết thất th́ thuộc huyết phận có nhiệt. Huyết phận có nhiệt, mọi mạch đều nối lên trên với tim, huyết mạch đều liên hệ với tâm, huyết phận có nhiệt ảnh hưởng đến tạng tâm, nên bn nói nhảm. Chứng nói nhảm ở đây không liên quan đến chứng táo bón, không phải do kinh dương minh, mà do nhiệt nhập huyết thất. Chứng trạng của nó không phải là bụng dưới trướng đầy, mà chính là “hung hiếp hạ măn, như kết hung trạng” (ngực và hạ sườn đầy trướng, như chứng kết hung).
Ở câu này một là kinh nguyệt vừa đến kỳ, hai là không phát sốt, chứng trạng chủ yếu th́ một là “hung hiếp hạ măn, như kết hung trạng”(ngực và hạ sườn trướng đầy, như chứng kết hung), hai là nói nhảm. Điều trị như thế nào?
“Đương thích Kỳ môn” (当刺期门), Nên châm huyệt Kỳ môn, tả tà nhiệt ở can đảm. Chính là kinh nguyệt vừa đến kỳ, lúc này có thể giải trừ nhiệt trong huyết, bệnh cũng sẽ biến chuyển tốt, và không cần sử dụng bất cứ phép tả hạ nào.
144 妇人中风,七八日,续得寒热,发作有时,经水适断者,此为热入血室,其血必结,故使如疟状,发作有时,小柴胡汤主之。C152
144 Phụ nhân trúng phong, thất bát nhật, tục đắc hàn nhiệt, phát tác hữu thời, kinh thuỷ thích đoạn, thử vi nhiệt nhập huyết thất, kỳ huyết tất kết, cố sử như ngược trạng, phác tác hữu thời, Tiểu sài hồ thang chủ chi. C152
Câu này tiếp theo câu trên thảo luận về chứng trạng và trị liệu của nhiệt nhập huyết thất nóng lạnh như sốt rét. V́ sao gọi là “Kinh thuỷ thích đoạn”(经水适断)? Là kinh nguyệt chưa thể ngưng mà lại ngưng, kinh nguyệt đúng ra chưa dứt, kinh nguyệt lại ngưng đúng vào thời điểm này. Tại sao vậy? V́ nhiệt nhập huyết thất, khí huyết bế tắc ngưng kết, nhiệt ngưng kết với huyết, nên nguyệt kinh ngưng lại, bệnh này là do ngoại cảm gây ra, “kinh thuỷ thích đoạn” kinh nguyệt ngưng, nên chú ư câu dưới “thất bát nhật” bảy tám ngày, là câu đảo ngữ “phụ nhân trúng phong thất bát nhật, kinh thuỷ thích đoạn giả” Phụ nữ trúng phong 7,8 ngày, kinh nguyệt ngưng lại. Ư này nên hiểu như vậy.
Sau khi kinh nguyệt ngưng lại th́ nhiệt kết với huyết, khiến khí của can đảm không thuận lợi, v́ thế “tục”, tiếp tục xuất hiện phát rét phát sốt đúng giờ, “tục đắc hàn nhiệt, phát tác hữu thời”( 续得寒热,发作有时) tiếp tục ớn lạnh phát sốt, phát tác theo giờ. Loại phát sốt này khác với những cơn sốt đă nói trước đây. Trước đây giảng về ố hàn phát nhiệt như sốt rét của Quế chi Ma hoàng các bán thang, Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang, chứng phát sốt này có đặc điểm hàn nhiệt văng lai mà phát tác đúng giờ, giống như chứng sốt rét, là khí của kinh Thiếu dương bất lợi, “phát tác hữu thời”, là phát tác có định thời gian, v́ thế có điểm giống chứng sốt rét, một ngày lạnh nóng 3 lần, hoặc 4 lần, hoặc 2 lần. Là như thế nào? Chứng này không trướng đầy ngực sườn, cũng không nói mê sảng, chỉ có “văng lai hàn nhiệt, phát tác hữu thời, kỳ h́nh như ngược” (往来寒热,发作有时,其形如疟) là lạnh nóng qua lại, phát tác đúng giờ, giống như chứng sốt rét, chỉ có đặc điểm chứng trạng này , chính là chứng phát sốt của nhiệt nhập huyết thất, khác với “nhiệt trừ nhi mạch tŕ thân lương”(热除而脉迟身凉) nhiệt trừ th́ mạch tŕ thân thể mát mẻ, như vậy nên không sử dụng phép châm, c̣n châm huyệt Kỳ môn để làm ǵ? Ngực sườn trướng đầy có thể châm huyệt Kỳ môn, v́ huyệt Kỳ môn ở dưới vú, có thể trị chứng ngực sườn trướng đầy, ở đây chứng trạng chủ yếu là hàn nhiệt, chính và tà ở dưới cạnh sườn, v́ thế lúc này cần cho bệnh nhân uống thang Tiểu sài hồ, thang dược có thể hạ sốt, có thể giải trừ bệnh tà hàn nhiệt.
Theo Y tông kim giám và quan niệm của các nhà chú thích đời sau, v́ ở đây khí huyết bế kết, khi chu kỳ nguyệt kinh đến mà bị bệnh này, nên kinh nguyệt lại không đến, thang Tiểu sài hồ cần gia thêm Đan b́, Sinh địa hoàng, Đào nhân, Hồng hoa để hoạt huyết. Ư kiến như vậy có đúng không? Điều này có đúng như trong lâm sàng không? Đúng như vậy, tốt hơn là chỉ dùng đơn thuần thang Tiểu sài hồ. Thang tiểu sài hồ cơ bản là nhiều thuốc về khí (khí dược) không có thuốc cho huyết phận, việc gia thêm một số huyết phận dược, hiệu quả trị liệu sẽ tốt hơn.
Trên lâm sàng chúng ta thấy nhiệt nhập huyết thất, kinh nguyệt vừa dứt mà bệnh nhân nóng lạnh như sốt rét, nên dùng thang Tiểu sài hồ gia Sinh địa, Mẫu đan b́, Hồng hoa, Đào nhân. Nếu nhiệt xuất mà mạch tŕ thân thể mát, ngực sườn trướng đầy, tương tự chứng kết hung, và kèm theo nói mê sảng, th́ nên châm huyệt Kỳ môn, đó chính là trường hợp kinh nguyệt vừa đến (thích lai).
145 妇人伤寒发热,经水适来,昼日明了,暮则谵语,如见鬼状者,此为热入血室。无犯胃气及上二焦,必自愈。C153
145 Phụ nhân thương hàn phát nhiệt, kinh thuỷ thích lai, trú nhật minh liễu, mộ tắc chiêm ngữ, như kiến quỷ trạng giả, thử vi nhiệt nhập huyết thất. Vô phạm vị khí cập thượng nhị tiêu, tất tự dũ. C153
Câu này thảo luận chứng nhiệt nhập huyết thất tự khỏi bệnh của phụ nữ. “Phụ nhân thương hàn phát nhiệt”(妇人伤寒发热), có phát sốt, sau khi kinh nguyệt đến có c̣n sốt? c̣n sốt, không nói “Hăn xuất nhi mạch tŕ thân lương”(汗出而脉迟身凉) xuất mồ hôi mạch tŕ thân thể mát. Nhưng bệnh nhân này có một đặc điểm, “Trú nhật minh liễu”(昼日明了), ban ngày tinh thần bệnh nhân minh mẫn, “Mộ tắc chiêm ngữ”(暮则谵语) đến chiều tối có lúc nói mê sảng, càng về tối tinh thần càng hồ đồ, như thấy ma quỷ “như kiến quỷ trạng”. Tinh thần có chút mê muội, lư do là ǵ? “Thử vi nhiệt nhập huyết thất”(此为热入血室), đây chính là thương hàn tà nhiệt xâm nhập huyết thất. Ban ngày dương khí tuần hành ở dương phận, đến chiều tối tuần hành ở âm phận, người nữ này trong huyết phận có nhiệt, nhiệt đă xâm nhập huyết thất, đến chiều tối dương khí lại tuần hành ở âm phận, nhiệt tà phát tác ở âm phận, v́ thế bệnh nhân nói mê sảng, tinh thần hồ đồ, như thấy ma quỷ. Đây là huyết nhiệt đưa lên, nhiệt trong huyết phát tác, khiến cho tâm thần xuất hiện tâm thần bất an nói mê sảng. Ngoại trừ chứng trạng này, bệnh nhân không văng lai hàn nhiệt, ngực và sườn cũng không trướng đầy, không có các chứng trạng như chứng kết hung, bệnh nhân chỉ phát sốt và nói mê sảng khi chiều tối.
“Vô phạm vị khí cập thượng nhị tiêu”(无犯胃气及上二焦), chữ “Vô” là một từ có tính loại trừ, “phạm” là xâm phạm, chính là có ư nói không cần dùng thuốc tả hạ, không v́ bệnh nhân nói mê sảng mà dùng thang Thừa khí xâm phạm vị khí của bệnh nhân. Nói mê sảng chính là biểu hiện của nhiệt ở huyết phận, không phải nhiệt ở khí phận. “Cập thượng nhị tiêu”, cũng không cần châm hoặc uống thang Tiểu sài hồ. V́ ngực sườn không đầy trướng, không văng lai hàn nhiệt nên châm huyệt , dùng thang Tiểu sài hồ là dư thừa, đây gọi là “Vô phạm vị khí cập thượng nhị tiêu”. “Tất tự dũ” Bệnh sẽ tự khỏi, v́ sao? V́ khi kinh nguyệt đến, đến mà không ngưng lại, khác biệt với “kinh thuỷ thích đoạn” (kinh nguyệt ngừng lại) nhiệt được loại bỏ theo huyết. V́ bệnh cơ chủ yếu chính là nhiệt trong máu, v́ thế bệnh nhân nói mê sảng vào buổi chiều tối, hiện tại bệnh nhân hành kinh, nhiệt trong huyết sẽ theo kinh nguyệt bài xuất ra ngoài nên bệnh tự khỏi mà không cần uống thuốc.
Một trường hợp dùng phép châm, một trường hợp dùng thang dược, một trường hợ “tất tự dũ”(tự khỏi), là ba trường hợp khác nhau. Kết lại, ba câu này: Câu C151, “往来寒热如疟” (văng lai hàn nhiệt như ngược) nóng lạnh thay phiên như sốt rét, dùng thang Tiểu sài hồ; Câu 152, “胸胁满,如结胸状” (ngực sườn trướng đầy, như kết hung trạng) nên châm huyệt kỳ môn để tả thực chứng; Điều 153C không có hai chứng trạng của hai điều trên, chỉ có một chứng trạng là “暮则谵语” (Mộ tắc chiêm ngữ) nói mê sảng vào buổi chiều tối), v́ thế đến khi kinh hành huyết xong th́ tà nhiệt tự giải (nhiệt tà theo kinh huyết ra ngoài cơ thể). Bệnh này không chỉ tồn tại với kinh nguyệt. Phụ nữ sau khi sanh, nhiệt nhập huyết thất, căn cứ theo chứng sốt hậu sản của y học hiện đại là như vậy, bệnh có chứng trạng thần kinh, nói mê sảng, tinh thần có chút hôn ám hồ đồ. Đó là ba loại h́nh nhiệt nhập huyết thất, có chứng trạng của chứng kết hung “như kết hung trạng” (như chứng kết hung) cũng có Thiếu dương chứng “hung hiếp hạ măn” (trướng đầy dưới ngực sườn), chính là chứng nhiệt nhập huyết thất, từ huyết phận ảnh hưởng đến khí phận, khí can đảm bất hoà, huyết phận có nhiệt xuất hiện các chứng trạng tinh thần như nói mê sảng, v́ thế Thái Thiếu tính bệnh và chứng kết hung xuất hiện ở phần dưới, có ư nghĩa hỗ tương so sánh.
146 伤寒六七日,发热微恶寒,支节烦疼,微呕,心下支结,外证未去者,柴胡桂枝汤主之。C154
146 Thương hàn lục thất nhật, phát nhiệt vi ố hàn, chi tiết phiền đông, vi ẩu, tâm hạ chi kết, ngoại chứng vị khứ giả, Sài hồ Quế chi thang chủ chi. C154
Sài hồ Quế chi thang
Thương hàn lục thất thiên
Phát nhiệt vi ố hàn
Chi tiết hữu phiền đông
Ngoại chứng vị khứ hoàn
Tâm hạ kiến chi kết
Vi ẩu Thiếu dương hiện
Sài hồ Quế chi thang
Hựu trị can khí xuyến
Tiểu sài nguyên phương thủ bán tiễn
Quế chi thang nhập phục phương toàn
Dương trung Thái Thiếu tương nhân bệnh
Thiên trọng sài hồ tác tử kiên
Quế chi bỏ vỏ Hoàng cầm Nhân sâm đều 1,5 lạng Cam thảo 1 lạng, cứu Bán hạ 2,5 hợp Thược dược 1,5 lạng đại táo 6 quả (bổ) sinh khương 1,5 lạng thái mỏng Sài hồ 4 lạng
9 vị thuốc trên, dùng 7 thăng nước, sắc c̣n 3 thăng, bỏ bă, uống ấm (ôn phục) một thăng.
Điều này thảo luận Thái dương và Thiếu dương cùng bị bệnh. Thái dương bị bệnh trước, sau đó xuất hiện Thiếu dương bệnh, gọi là Thái Thiếu tính bệnh (cùng bị bệnh).
“Phát nhiệt, vi ố hàn, chi tiết phiền đông”(发热,微恶寒,支节烦疼) Phát sốt, sợ lạnh nhẹ, khớp tứ chi rất đau, đây là vấn đề biểu tà của kinh Thái dương. Phát sốt, c̣n một chút sợ lạnh, tại sao? V́ thương hàn 6,7 ngày. Một lượng nhỏ tà khí hoá nhiệt, nhưng chưa được giải trừ. “Chi tiết phiền đông” là đau tệ hại, “phiền” là đau tệ hại, khớp ở tứ chi rất đau đớn là biểu tà của Thái dương chưa giải trừ. “vi ẩu” (微呕), nôn oẹ tương đối nhẹ, “心下支结” (Tâm hạ chi kết), “心下痞硬”(Tâm hạ bĩ ngạnh), “心下痞满”là những tham khảo quan trọng, “tâm hạ chi kết” nhẹ hơn “bĩ măn” một chút. Chi là chống đỡ, là hiện tại hơi hoảng hốt, chi cũng có nghĩa là bên cạnh, nó có hai ư, là hoảng hốt ở tâm hạ (bên dưới tim) và bên cạnh tim, chứng trạng nhẹ hơn so với chứng bĩ muộn, nhưng cũng gây khó chịu. Ngoài ra, chứng chi kết ở phía dưới tim, sát hai bên, không ở chính giữa, là chi có nghĩa là cành, như cây có cành, cả hai cách nói đều đúng, đều phản ảnh từ lâm sàng.
“Vi ẩu”(nôn nhẹ) và “Tâm hạ chi kết”, chính là khí thiếu dương bất hoà, nhưng bất hoà nhẹ, v́ bệnh ở Thiếu dương là “Hỉ ẩu”(hay nôn), ẩu là chứng trạng khá nặng, bệnh ở kinh Thiếu dương có chứng trạng bĩ muộn ở dưới tim (dạ dày) là bệnh khá tệ hại, hiện tại chỉ là “vi ẩu”(nôn nhẹ), “tâm hạ chi kết” hai chứng trạng đều nhẹ. Tuy chứng trạng nhẹ, nhưng vẫn là Thiếu dương chứng, nên được gọi là “thái dương Thiếu dương tính bệnh”(Thái, Thiếu dương cùng bị bệnh). Hai kinh Thái dương và Thiếu dương cùng bệnh, cần phải ước tính xem bệnh ở kinh nào nặng, bệnh ở kinh nào nhẹ? Bệnh ở kinh Thái dương nặng, bệnh ở Thiếu dương nhẹ hơn, v́ thế người xưa gọi là “Thất biểu tam lư chi chứng”(七表三里之证), là biểu chứng chiếm 7 phần, thiếu dương lư chứng chiếm 3 phần. “Ngoại chứng vị khứ giả”
(外证未去者), v́ bệnh nhân phát sốt sợ lạnh, chứng trạng bên ngoài của kinh Thái dương chưa giải trừ, nếu chỉ đơn thuần dùng thang Sài hồ th́ không đúng, v́ c̣n có các biểu chứng chưa giải trừ như “Chi tiết phiền đông, phát nhiệt vi ố hàn”
(支节烦疼,发热微恶寒) khớp xương đau tệ hại, phát sốt hơi sợ lạnh. Phải làm thế nào? “Sài hồ Quế chi thang chủ chi” (柴胡加桂枝汤主之) thang Sài hồ quế chi chủ trị bệnh này, trên cơ sở thang Tiểu sài hồ gia Quế chi, Thược dược, là thang Tiểu sài hồ và thang Quế chi hợp lại, như vậy có khả năng hoà giải Thiếu dương, trị chứng “Vi ẩu, tâm hạ chi kết”(微呕,心下支结) nôn nhẹ, hoảng hốt nhẹ, đồng thời cũng điều trị “chi tiết phiền đông” đau nhức ở khớp các chi, phát sốt sợ lạnh của Thái dương bệnh, phương thang này nhiều ít cũng có kèm theo ư phát hăn nhẹ. Bệnh ở kinh Thiếu dương cấm phát hăn, tại sao ở đây lại dùng Sài hồ gia Quế chi, c̣n có ư trị Thái dương giải cơ biểu? Tương tự như thang Đại sài hồ, thiếu dương bệnh cấm dùng phép tả hạ, nếu như, “Ẩu bất chỉ, tâm hạ cấp, uất uất vi phiền giả呕不止,心下急,郁郁微烦者) bệnh nhân ẩu thổ không ngừng, trong dạ dày (tâm hạ cấp) buồn bực khó chịu, mà c̣n trên cơ sở Sài hồ thang gia Đại hoàng, Chỉ thực. Ở đây cũng trên cơ sở sài hồ thang, không gia Ma hoàng mà gia Quế chi thang để điều hoà doanh vệ, giải bệnh tà ở kinh Thái dương. Đây là ứng dụng khi biến hoá, cấm hăn, cấm thổ, cấm hạ là nói khi bệnh b́nh thường, có thể gia Đại hoàng, có thể gia Quế chi, là nói lúc bệnh biến hoá. Thái, Thiếu dương hai kinh cùng bị bệnh, không gia Sài hồ thang, chỉ dùng thang Quế chi có được không? Là sai, v́ thang Sài hồ Quế chi, trên cơ sở trị Thiếu dương bệnh của thang Sài hồ kiêm trị bệnh của kinh Thái dương là khả năng của nó. Thang Đại sài hồ trên cơ sở trị bệnh của kinh Thiếu dương gia thêm vị Đại hoàng để trị bệnh của kinh Dương minh, việc này cũng trong năng lực của nó, không thể coi nó và đơn thuần Thừa khí thang là giống nhau.
Sài hồ Quế chi thang có rất nhiều cơ hội để sử dụng trên lâm sàng. Thang Tiểu sài hồ hoà giải biểu lư, thang Quế chi điều hoà doanh vệ, điều hoà khí huyết, hai phương hợp lại có phạm vi trị liệu rộng răi gồm biểu lư trong ngoài, khí huyết trên dưới của cơ thể, có tác dụng điều trị trên một phạm vi rộng. Căn cứ theo sự hiểu biết của người viết, phương thang này có thể trị những bệnh ǵ? Đoạn văn của thang Sài hồ Quế chi thang chính là dùng để trị hai kinh Thái dương và Thiếu dương cùng bị bệnh, người viết dùng thang dược này để trị chứng viêm gan, viêm gan mạn tính, sơ gan thời kỳ đầu, gia thêm các vị thuốc hoạt huyết như Hồng hoa, Tây thảo, gia thêm các vị thuốc nhuyễn kiên như Miết giáp, Mẫu lệ.
V́ Quế chi, Thược dược có tác dụng điều hoà doanh vệ, điều hoà khí huyết, Sài hồ sơ lợi can đảm (điều tiết gan, lợi mật), lại gia Miết giáp, Mẫu lệ nhuyễn kiên tiêu bĩ, Hồng hoa, Tây thảo hoạt huyết thông lạc, hiệu quả rất tốt, đồng thời phương thang này không quá mát, không quá nóng nên có thể uống lâu dài, uống 10 thang, 20 thang không xuất hiện vấn đề ǵ. Bệnh sơ gan thời kỳ đầu, dùng Sài hồ quế chi thang bỏ đại táo, v́ chứng hạ sườn có khối cứng phải bỏ đại táo. Thứ hai là dùng điều trị chứng thần kinh quan năng chứng, là chứng can khí loạn, hiệu quả cũng rất tốt. Khi bệnh nhân tức giận liền có cảm giác khí chạy tán loạn trên dưới, trái phải trên thân thể, người bệnh khi có cảm giác khí chạy đến đâu th́ lấy tay đánh vào đó rồi chạy ra ngoài để ợ, ợ được sẽ có cảm giác dễ chịu, tây y gọi là thần kinh quan năng chứng, trung y gọi là chứng can khí không sơ tiết, dùng thang Tiểu sài hồ sơ tiết gan, gia Quế chi, Thược dược điều hoà doanh vệ, điều hoà khí huyết. Thứ ba là trị chứng Tí. Chứng tí hiện nay gọi là chứng viêm khớp, mà c̣n kèm theo can khí, viêm khớp tứ chi đau đớn, v́ thế bệnh này không chỉ đau tệ hại ở khớp xương, mà bên trong ngực và sườn trướng đầy phiền muộn, tắc nghẽn, c̣n kèm theo can khí, mạch huyền, thang sài hồ quế chi hiệu quả cực tốt, có tác dụng sơ tiết can đảm, lại trị toàn thân đau nhức. đó chính là thang Sài hồ quế chi. V́ thế khi hiểu rơ đạo lư này, sẽ có thể đồng bệnh dị trị (bệnh giống nhau mà điều trị khác nhau), dị bệnh đồng trị (bệnh khác nhau mà điều trị giống nhau), phát huy tác dụng có tính linh hoạt rất cao của bài thuốc.
Trường Xuân Ng.Nghị
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-12-14 21:11:42
Điều 147 đến điều 149
147 伤寒五六日,已发汗而复下之,胸胁满,微结,小便不利,渴而不呕,但头汗出,往来寒热心烦者,此为未解也,柴胡桂枝干姜汤主之。C155
147 Thương hàn ngũ lục nhật, dĩ phát hăn nhi phục hạ chi, hung hiếp măn, vi kết, tiểu tiện bất lợi, khát nhi bất ẩu, đăn đầu hăn xuất, văng lai hàn nhiệt tâm phiền giả, thử vi vị giải dă, sài hồ quế chi can khương thang chủ chi. C155
Phương thang Sài hồ quế chi can khương
Thiếu dương kinh bệnh hăn phục hạ
Đảm trung tỳ thổ trung khí thương
Hung măn hiếp kết niệu bất lợi
Bất ẩu khát phiền đầu hăn thảng
Văng lai hàn nhiệt hà khả trị
Sài hồ quế chi can khương thang
Bát sài nhị thảo lệ can khương
Cầm quế tam lạng qua tứ thường
Sài hồ nửa cân Quế chi 3 lạng bỏ vỏ Can khương 3 lạng Qua lâu căn 4 lạng hoàng cầm 3 lạng Mẫu lệ 2 lạng, ngao Cam thảo 2 lạng, nướng
Bảy vị thuốc trên, dùng 1 đấu 2 thăng nước, sắc c̣n 6 thăng, bỏ bă, cô lại c̣n 3 thăng, uống khi thuốc c̣n ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần. Mới uống có cảm giác bực bội, uống thêm xuất mồ hôi và khỏi bệnh.
Đây là đoạn văn thảo luận về chứng thương hàn sau khi điều trị sai lầm dẫn đến bệnh tà truyền nhập kinh Thiếu dương, khí hoá thất thường, tân dịch không phân bố, thuộc Sài hồ quế chi Can khương thang chứng. Phương thang này và thang Đại sài hồ là hai phương thang dùng để so sánh. Thang Đại sài hồ trị bệnh tà của kinh Thiếu dương quy nhập vào kinh Dương minh, dương minh táo nhiệt, v́ thế đă giải Thiếu dương lại hạ dương minh, là điều trị thực chứng. Thang Sài hồ Quế chi can khương chính là bệnh tà ở kinh Thiếu dương không được giải mà tạng tỳ bị lạnh (tỳ hàn) mà khí âm và khí tân dịch bị tổn thương, khí hoá không thuận lợi, v́ thế nó có một mức độ hư hàn nhất định, cũng có thể nói là có cơ hội chuyển thành âm chứng, Thái âm bệnh có cơ hội chuyển thành âm chứng, v́ thế mà dùng thang Sài hồ quế chi Can khương.
Bệnh này khởi phát sau khi thương hàn 5,6 ngày, đă phát hăn, lại dùng tả dược để công hạ, phép hăn và phép hạ gây tổn thương tân dịch, hai phép (hăn và hạ) này cũng gây tổn thương chính khí, v́ thế bệnh nhân có vấn đề về chính khí không đầy đủ.
Sau khi ngộ hạ (hạ nhầm), bệnh tà ở kinh Thái dương truyền đến kinh Thiếu dương, xu cơ (then chốt vận hành) của kinh Thiếu dương không thuận lợi cho nên “Hung hiếp măn vi kết”(胸胁满微结) ngực sườn trướng đầy và uất kết nhẹ. Khí Thiếu dương không thuận lợi là “Hung hiếp măn” (ngực sườn trướng đầy), “vi kết” là nói về khí bị uất kết, nhưng là uất kết không quá nghiêm trọng. “Tiểu tiện bất lợi”, tân dịch đă bị hư tổn, tác dụng khí hoá cũng không quá tốt, lại cộng thêm kinh Thiếu dương c̣n “vi kết” uất kết nhẹ, v́ thế nên tiểu tiện không thuận lợi. “Khát”, tân dịch bị hư tổn nên khát, loại khát này không phải do thuỷ ẩm đ́nh tích trong dạ dày, v́ thế mà “bất ẩu”(không nôn). Cùng xem xét “Tiểu tiện bất lợi” (tiểu tiện không thuận lợi) và “khát nhi bất ẩu” (khát mà không ẩu thổ), nếu khát nước của chứng đ́nh ẩm (thuỷ ẩm bị đ́nh tích trong dạ dày), tiểu tiện bất lợi luôn kèm theo chứng trạng “dục ẩu” (muốn nôn), trường hợp này là tân dịch bị hư tổn, không phải do đ́nh ẩm (ẩm thuỷ bị đ́nh trệ), v́ thế bệnh nhân “khát nhi bất ẩu” (khát nhưng không nôn), đề xuất này có ư nghĩa phân biệt chẩn đoán. “但头汗出” (Đăn đầu hăn xuất) nhưng đầu xuất mồ hôi, v́ tân dịch đă hư tổn, khí cũng đă hư, chính khí không thể vượt nhiệt ra ngoài, v́ thế toàn thân không có mồ hôi, trên đầu xuất một chút mồ hôi, nhiệt tà không thể theo mồ hôi để giải. Thiếu dương bị uất kết, v́ thế “Văng lai hàn nhiệt, tâm phiền giả, thử bệnh vị giải dă”(往来寒热,心烦者,此为未解也) Lạnh nóng thay nhau xuất hiện, tâm phiền, có ư nói bệnh chưa được giải trừ. Tiêu điểm của vấn đề là kinh Thiếu dương bị bệnh, tân dịch bị hư tổn, công năng khí hoá (chú thích ở phần dưới) cũng không tốt, v́ thế tiểu tiện bất lợi, mồ hôi cũng không xuất ra được. Bệnh này rất giống với chứng thấp nhiệt ngưng kết, tiểu tiện bất lợi, thấp không tiết ra được, nhưng xuất mồ hôi đầu, rất giống với chứng thấp nhiệt phát hoàng (vàng da), nhưng chính là ở đây không phải thấp nhiệt, ở đây là chứng tân dịch bị hư tổn, v́ có chứng trạng khát nước.
Phải xử lư như thế nào? Một mặt nên hoà giải thiếu dương, dùng thang Tiểu sài hồ, một mặt nên gia Quế chi, Can khương hỗ trợ khí hoá, gia Thiên hoa phấn để sinh tân dịch, phân bố tân dịch; Gia Mẫu lệ, chính là phép gia giảm của thang Tiểu sài hồ, ngực sườn trướng đầy vi kết (khí uất kết nhẹ) đă ngưng tụ. Vị Mẫu lệ hàm hàn (mặn lạnh) có tác dụng nhuyễn kiên (làm mềm), có thể trừ khứ khí ngưng kết của can đảm, sự bế tắc sơ cứng của can đảm, v́ thế cần gia thêm Mẫu lệ và bỏ vị Đại táo. Phương thang này có thể nuôi dưỡng tân dịch và cũng có tác dụng hỗ trợ dương khí, đồng thời kiêm hoà giải Thiếu dương, trên lâm sàng có thể trị liệu 3 loại bệnh tật, đắc lực phi thường.
Căn cứ điều văn trong “Thương Hàn Luận”, chúng ta phát triển được phương thang này, một là trị Thiếu dương bệnh có hướng chuyển biến thành âm chứng, là thấy Thái âm bệnh. Kinh Thiếu dương kế cận kinh Thái âm, kinh Thiếu dương là mấu chốt của âm dương, bệnh tà của kinh Thiếu dương sẽ quá độ đến kinh Thái âm, trên lâm sàng sẽ có Thiếu dương chứng lại có Thái âm bệnh, là hạ lợi, bụng dưới trướng đầy, có thể dùng thang Sài hồ Quế chi Can khương. Thí dụ như chúng ta đang điều trị chứng viêm gan mạn tính, viêm gan lâu ngày, luôn có các hiện tượng như, miệng đắng, họng khô, can đảm nóng, nhưng bụng lại trướng, phân lỏng, tỳ vị c̣n hàn (lạnh), có thể dùng thang Sài hồ Quế chi Can khương, thanh giải nhiệt của thiếu dương, đồng thời lại có thể làm ấm trung tiêu tỳ vị (bị lạnh), hiệu quả rất tốt, nhất là đối với chứng viêm gan mà đại tiện không điều hoà, trướng bụng dưới. Hiệu quả này rơ rệt phi thường. Nói đến trọng điểm, Thiếu dương chứng là dương chứng, nhưng có hướng chuyển của âm chứng, đă xuất hiện những dấu hiệu của Thái âm bệnh th́ phải dùng phương thang này.
Thứ hai là, phương thang này rất hiệu quả khi dùng để điều trị bệnh tiểu đường, nhất là bệnh tiểu đường kế phát của viêm gan mạn tính, viêm gan kéo dài. V́ nó trị chứng khát nước, bệnh tiểu đường cũng khát nước; Bệnh tiểu dường rất khó điều trị, 3,4 “+” không hạ, sau khi uống phương thang này đường huyết và đường niệu hạ thấp đáng kể, hiệu quả rất rơ rệt. Trên cơ sở chứng trạng nêu trên, có bệnh cơ của Thiếu dương, mà lại khát nước, tâm phiền, lại có thể uống nước, giống như những t́nh huống của bệnh tiểu đường, dùng thang Sài hồ Quế chi Can khương thang đem lại hiệu quả rất tốt.
Thứ ba, phương thang này có thể điều trị chứng sốt rét hàn tính. Sốt rét là phát rét phát sốt, bệnh phát tác theo giờ, có lúc phát sốt nhiều, có lúc phát rét nhiều, thang Sài hồ Quế chi Can khương trị chứng sốt rét thiên về phát rét sợ lạnh nhiều hơn phát sốt, phương thang này rất phù hợp với sốt rét hàn tính. Đây là 3 điểm cần ghi nhớ.
Thứ tư, Chúng ta thấy một số bệnh viêm gan trên lâm sàng, chúng có các đặc điểm như đau ở vùng gan, lan ra sau, lan trên đến vai lưng, đi xuống đến eo, đau rất tệ, đầu ngón tay tê dại, thậm chí không biết đau khi va chạm, mạch huyền mà hoăn, bụng dưới c̣n bị đầy trướng, phương thang có hiệu quả rất tốt trong trường hợp này.
《Thương hàn luận》 trị Thiếu dương chứng (hội chứng của kinh Thiếu dương), một là thang Đại sài hồ, kiêm trị kinh dương minh, hai là thang Sài hồ Quế chi Can khương, là phương thang kiêm trị Thái âm. Thang Sài hồ Quế chi Can khương là bắt đầu thuận theo khí hoá, tại sao lại gia thêm Quế chi , Can khương? Quế chi , Can khương có tác dụng thông đạt dương khí, ôn hoá tỳ khí, Can khương là chủ dược của thang Lư trung, trong phương này có vị Cam thảo phối với Can khương, là một một nửa thang Lư trung, có tác dụng ấm áp tạng tỳ; Gia Quế chi có tác dụng thông dương khí, vận hành Tam tiêu, vận hành tân dịch, lợi tiểu tiện. Ở đây c̣n có Qua lâu căn, v́ thế phương thang này trị các chứng như công năng dương khí khí hoá không thuận lợi, công năng vận hoá của tạng tỳ bất lợi, tam tiêu khí hoá bất lợi, tân dịch không đủ lại kèm theo thiếu dương can đảm khí uất. Sau khi uống hết thang thuốc sẽ xuất hiện một phản ứng (ở cuối câu) các vị nên chú ư.
Phương pháp sắc uống của thang Sài hồ Khương Quế, “Thượng thất vị, dĩ thuỷ nhất đấu nhị thăng, chử thủ lục thăng, khứ tể, tái tiễn, thủ tam thăng, ôn phục nhất thăng, nhật tam phục, sơ phục vi phiền, phục phục hăn xuất tiện dũ” ( Bảy vị thuốc trên, dùng 1 đấu 2 thăng nước, đun c̣n 6 thăng, bỏ bă tiếp tục đun, lấy lại 3 thăng, uống lúc thuốc ấm 1 thăng, ngày uống ba lần, uống lần đầu có cảm giác bực bội, uống tiếp sẽ xuất mồ hôi và khỏi bệnh), khi uống thuốc, có lúc bệnh nhân cảm thấy bực bội, sau khi bực bội bệnh nhân xuất mồ hôi, sau khi xuất mồ hôi bệnh có biến chuyển tốt. V́ sao như vậy? V́ tà khí uất kết, khí và tân dịch bị tổn hại, sau khi uống Sài hồ Khương Quế thang, Sài hồ có tác dụng sơ giải Thiếu dương, lại gia Quế chi, Can khương và Thiên hoa phấn (Qua lâu căn) thông dương khí, chỉ tân dịch (đ́nh chỉ), khí và dịch cùng hồi phục, chính khí đă đầy đủ, tà khí thông qua lực lượng của thang Tiểu sài hồ gây ra một chút bực bội, xuất một ít mồ hôi, cũng chính là phản ứng của chính khí thắng tà khí, sau khi uống thuốc xong có lúc có hiện tượng này.
148 伤寒五六日,头汗出,微恶寒,手足冷,心下满,口不欲食,大便硬,脉细者,此为阳微结,必有表,复有里也。脉沉,亦在里也。汗出为阳微,假令纯阴结,不得复有外证,悉入在里,此为半在里半在外也。脉虽沉紧,不得为少阴病,所以然者,阴不得有汗,今头汗出,故知非少阴也,可与小柴胡汤。设不了了者,得屎而解。C156
148 Thương hàn ngũ lục nhật, đầu hăn xuất, vi ố hàn, thủ túc lănh, tâm hạ măn, khẩu bất dục thực, đại tiện ngạnh, mạch tế giả, thử vi dương vi kết, tất hữu biểu, phục hữu lư dă. Mạch trầm, diệc tại lư dă. Hăn xuất vi dương vi, giả linh thuần âm kết, bất đắc phục hữu ngoại chứng, tất nhập tại lư, thử vi bán tại lư bán tại ngoại dă. Mạch tuy trầm khẩn, bất đắc vi Thiếu âm bệnh, sở dĩ nhiên giả, âm bất đắc hữu hăn, linh đầu hăn xuất, cố tri phi Thiếu âm dă, khả dữ Tiểu sài hồ thang. Thiết bất liễu liễu giả, đắc thỉ nhi giải. C156
Tinh thần chung của đoạn văn dài này là phân biệt cái ǵ là “阳微结” (dương vi kết), cái ǵ là “纯阴结” (thuần âm kết). Hội chứng “Dương vi kết” có một chút h́nh tượng của “Thuần âm kết”, dương chứng tựa như âm, nếu không tiến hành phân tích, sẽ dễ dàng phát sinh chẩn đoán âm dương sai lầm. “Dương vi kết” và “Thuần âm kết” là tên hội chứng của người xưa.
Chia thành ba phân đoạn để lĩnh hội. Phân đoạn thứ nhất là nói về mạch và chứng của “阳微结” (dương vi kết), cái ǵ gọi là “Dương vi kết”, là “必有表,复有里也” (tất hữu biểu, phục hữu lư dă) có biểu chứng lại có lư chứng, đến đây là một đoạn ngắn, đoạn thứ nhất. Đoạn thứ hai là phân biệt “阳微结” (dương vi kết) và “纯阴结” (thuần âm kết). “Dương vi kết” thuộc dương khí đă kết, khi dương khí kết rồi liền có một chút tựa như âm chứng, v́ thế thánh y Trọng Cảnh liền tiến hành phân tích so sánh “纯阴结” (thuần âm kết) với “dương vi kết”. Đoạn thứ ba là trị pháp của “阳微结” (dương vi kết).
Trước tiên nói về đoạn thứ nhất. Bệnh là do thương hàn gây ra, thương hàn ở biểu chưa giải trừ, có “vi ố hàn”, “有一分恶寒,便有一分表证” (hữu nhất phân ố hàn, tiện hữu nhất phân biểu chứng) c̣n một chút sợ lạnh là c̣n một chút biểu chứng, “心下满,大便硬” (tâm hạ măn, đại tiện ngạnh) dạ dày đầy trướng, phân cứng, chính là lư chứng. Đây là âm chứng hay dương chứng ? Xét theo, “大便硬,心下满đại tiện ngạnh, tâm hạ măn” (phân cứng, dạ dày trướng đầy) đây là biểu hiện của ngưng kết ở kinh dương minh, là dương chứng. Biểu chứng là “微恶寒” (vi ố hàn), lư chứng là “大便硬,心下满” (đại tiện ngạnh, tâm hạ măn), biểu lư chứng đều đă có, dương khí của biểu lư đều bất lợi, đều chịu sự ngưng kết của tà khí.
Đồng thời xuất hiện chân tay lạnh và trên đầu xuất mồ hôi, tại sao chân tay lạnh và đầu xuất mồ hôi?
Là phản ảnh của dương khí bế uất không tuyên đạt. “头汗出” (Đầu hăn xuất) xuất mồ hôi đầu là có ư nói toàn thân không có mồ hôi, chỉ có mồ hôi trên đầu. Nếu dương khí vượt được ra ngoài (tuyên đạt), chính khí xuất ra biểu, bệnh tà giải theo mồ hôi, th́ sẽ xuất mồ hôi toàn thân. Hiện tại lư c̣n nhiệt (bên trong c̣n nóng) “tâm hạ măn, đại tiện ngạnh” dạ dày trướng măn, phân cứng, mồ hôi chỉ có thể xuất ở phần đầu, mà “余处无汗” (dư xử vô hăn) phần c̣n lại không có mồ hôi, dương khí không thể thông ra ngoài. Tại sao? V́ bị ngưng kết, khí sẽ không thông đạt, dương khí sẽ không ra đến tứ chi, v́ thế mà chân tay lạnh. “手足冷” (Thủ túc lănh) và “头汗出” (Đầu hăn xuất) Chân tay lạnh và đầu xuất mồ hôi là một loại biểu hiện của nóng bên trong (lư nhiệt), dương nhiệt ngưng kết không thể tuyên đạt (khai thông). Tại sao dương khí không tuyên đạt? V́ bệnh này có biểu chứng lại có lư chứng, bên ngoài sợ lạnh, bên trong có phân cứng, tâm hạ măn (dạ dày trướng đầy), khí biểu lư bất hoà, dương khí làm sao có thể tuyên đạt? Liệu biểu lư bất hoà đều có thể “thủ túc lănh”(chân tay lạnh) không? Tại sao "tay chân lạnh" và "mồ hôi đầu" không xuất hiện trong những trường hợp biểu lư bất hoà mà chúng ta đă nói trước đây? “Mạch tế giả”, mạch c̣n thấy huyền tế, “Tế”ở đây, bên trong nhất định c̣n có chữ “huyền”, không gia thêm chữ “huyền” th́ khó giải thích được vấn đề. Mạch tế, lại có ư là mạch huyền lại có ư là mạch tế , chính là mạch của kinh Thiếu dương. Khí biểu lư được nhờ khí Thiếu dương sơ tiết thông đạt, hiện tại mạch thấy tế huyền, khí cơ của kinh Thiếu dương bất lợi, v́ thế dương khí bị uất, không thể thông đạt, gọi là “阳微结” (dương vi kết).
V́ sao gọi là “阳微结” (dương vi kết)? V́ dương kết ở trong (lư), “心下满,大便硬” (tâm hạ măn, đại tiện ngạnh) đầy dưới tim, phân cứng, ngoài biểu c̣n “微恶寒” (vi ố hàn) sợ lạnh nhẹ, biểu hiện tà khí chưa hoàn toàn nhập lư, như vậy ‘kết”, kết nhiệt của dương tà là khinh vi (ít, nhẹ), Thiếu dương c̣n một vấn đề, là một loại bệnh tà tản mạn, Thái dương, Thiếu dương, dương minh mỗi nơi đều có một ít (bệnh tà), cho nên gọi là “阳微结” (dương vi kết). “必有表,复有里也” (tất hữu biểu, phục hữu lư dă) có ở biểu, lại có ở trong lư. Nói là “阳微结” (Dương vi kết) là tất nhiên có biểu chứng, nếu không có biểu chứng th́ không gọi là “dương vi kết”, c̣n “phục hữu lư dă” c̣n ở trong lư, “lư” là ǵ? Là nói về kinh dương minh, bệnh này đă có biểu chứng cũng có lư chứng, v́ vậy gọi nó là “阳微结” (dương vi kết). Đoạn thứ nhất đến đây là hoàn tất, nói lên vấn đề ǵ?, chính là “阳微结” (dương vi kết) có biểu chứng cũng có lư chứng, khí cơ của Thiếu dương bất lợi, tay chân quyết lănh (tay chân lạnh).
Dưới đây chúng ta sẽ thảo luận về Tứ nghịch tán, “柴芍枳草四逆散” (Sài thược chỉ thảo tứ nghịch tán) trị chứng dương khí uất tay chân lạnh. Nếu như không liên quan đến Thiếu dương, chỉ có biểu và lư, điều này không làm tay chân lạnh, v́ dương vi kết có quan hệ với xu cơ (Trục vận hành) bất lợi của Thiếu dương, v́ sao như vậy? V́ thấy mạch tế huyền.
Đoạn thứ hai là đă tiến vào trong (lư). 《Thương hàn luận》 giảng biện chứng, biện chứng sẽ so sánh âm dương, hư thực, hàn nhiệt. “脉沉,亦在里也。汗出为阳微,假令纯阴结,不得复有外证,悉入在里。此为半在里半在外也” (Mạch trầm, diệc tại lư dă. Hăn xuất vi dương vi, giả linh thuần âm kết, bất đắc phục hữu ngoại chứng, tất nhập tại lư. Thử vi bán tại lư bán tại ngoại dă.) Mạch trầm là bệnh tại bên trong (lư). Xuất mồ hôi là dương vi (dương nhỏ bé), nếu như hoàn toàn là chứng âm kết th́ không có chứng trạng ở bên ngoài (biểu chứng). Đó là một nửa ở trong một nửa ở ngoài)
Đây là đoạn mà mạch c̣n Huyền Tế, nếu mạch Trầm th́ mạch trầm thuộc lư chứng, lư là thuộc âm, bệnh này thuộc lư, thuộc về Thiếu âm, đây không phải “Dương vi kết” mà chính là “Thuần âm kết” v́ thế sẽ t́m hiểu lư do theo phương diện “纯阴结” (thuần âm kết). Nếu như bệnh nhân biểu hiện mạch trầm, là thấy mạch của Thiếu âm, “亦在里也” (diệc tại lư dă) là biểu hiện bệnh tại lư, cũng tính là bệnh tại lư và thuộc về Thiếu âm, vậy tại sao c̣n “xuất hăn”? hăn xuất dương vi (hư yếu), dương khí hư nhược sẽ xuất hăn. Như vậy là “Giả linh thuần âm kết” (假令纯阴结), “giả linh” là nói bệnh là “thuần âm kết”, không có chứng trạng bên ngoài, hoàn toàn là một loại chứng dương hư hàn, thuộc về thái âm bệnh. “不得复有外证” (Bất đắc phục hữu ngoại chứng) Không được lại có ngoại chứng, nếu như “thuần âm kết”, là bệnh của Thiếu âm, bệnh đă rời khỏi ba kinh dương, c̣n có thể có ngoại chứng, hay dương chứng không? Không thể có các chứng trạng như đau người, phát nhiệt, sợ lạnh, chỉ có thể xuất hiện âm chứng của thiếu âm âm hàn. “不得复有外证” (Bất đắc phục hữu ngoại chứng) không thể lại có biểu chứng, chính là “悉入在里” (tất nhập tại lư) nhập hết vào bên trong, hoàn toàn ở bên trong, “tại lư”là chứng trạng ǵ? Đây là “Thuần âm kết”, chính là âm hàn ngưng tụ.
So sánh với chứng này, “此为半在里半在外也” (Thử vi bán tại lư bán tại ngoại dă) đó là nửa ở trong nửa ở ngoài và “纯阴结” (Thuần âm kết) không giống nhau, nó có cả biểu chứng và lư chứng, có một nửa ở ngoài và một nửa ở trong, ở bên ngoài có Thái dương, bên trong có dương minh, như vậy tuy mạch trầm khẩn “bất đắc vi Thiếu âm bệnh” (不得为少阴病)không được coi là bệnh ở kinh Thiếu âm, mạch tuy trầm khẩn cũng không thể gọi là bệnh ở kinh Thiếu âm. Tại sao như vậy? Ở câu trong ngoặc “所以然者……解” (sở dĩ nhiên giả …..giải). “阴不得有汗” (Âm bất đắc hữu hăn”) âm chứng không thể có mồ hôi, âm chứng sao lại xuất mồ hôi trên đầu?, đầu là nơi tụ hội của các kinh dương, chỉ có các các kinh dương tụ hội ở đầu, v́ thế âm chứng không dễ có mồ hôi, trên đầu cũng không xuất mồ hôi, nếu xuất mồ hôi trên đầu là do dương khí vượt ra ngoài, vượt mà không phải là hiện tượng xuất. “今头汗出,故知非少阴也” (Kim đầu xuất hăn, cố tri phi Thiếu âm dă”), hiện tại trên đầu đă xuất hăn, điều này cho biết là không phải bệnh ở kinh Thiếu âm, không v́ chân tay quyết lănh, đầu xuất mồ hôi, xuất mồ hôi là vong dương. chân tay quyết lănh là dương hư, mà cho là bệnh này thuộc Thiếu âm, tại sao không phải như vậy? V́ bệnh có biểu chứng có lư chứng, có “đại tiện ngạnh”(phân cứng), ‘tâm hạ măn” (dạ dày đầy trướng), bên ngoài c̣n có chứng trạng phát nhiệt và sợ lạnh.
Làm thế nào? Bệnh nhân mạch huyền tế, bên ngoài hơi sợ lạnh, cũng có thể bao gồm phát nhiệt, bên trong có tâm hạ măn (dạ dày trướng đầy), phân cứng, tay chân c̣n lạnh, đầu xuất mồ hôi, dương khí không thông đạt, “khả dữ Tiểu sài hồ thang”( 可与小柴胡汤), có thể cho bệnh nhân uống thang Tiểu sài hồ, có tác dụng điều tiết trục vận hành (xu cơ) của Thiếu dương, dương khí thông đạt, biểu lư đă thuận hoà, chân tay không c̣n mát (lương凉) , bệnh đă biến chuyển tốt. Sau khi uống thang Tiểu sài hồ, “设不了了者” (thiết bất liễu liễu giả”)giả thiết là không rơ ràng, thiết là có ư suy đoán, giả thiết bệnh này c̣n có điểm không minh bạch, c̣n có chút “bất liễu liễu” (không rơ ràng) , là dương tà uất kết ở trong, trong vị tràng có kết nhiệt, ḷng bực bội, bên trong nóng. “Đắc thỉ nhi giải” (得屎而解) là bệnh sẽ biến chuyển tốt sau khi bệnh nhân đại tiện, có ư nói là có thể hoà vị khí nhẹ nhàng, bằng thang Điều vị thừa khí.
Đoạn văn dài này là phân biệt các điểm đáng nghi giữa “dương vi kết” và “thuần âm kết”, có điểm giống lại có điểm không giống, liên quan đến vấn đề tay chân lạnh, và nó liên quan đến vấn đề mạch tế hoặc mạch trầm. Thông qua việc học tập t́m hiểu đoạn văn này để giải quyết vấn đề, chứng dương nhiệt uất kết có lúc giống như âm chứng, nhưng không phải là âm chứng, thông qua phân tích “头汗出” (đầu hăn xuất) đầu xuất mồ hôi, “阴不得有汗” (âm bất đắc hữu hăn) âm không có mồ hôi, “复表” (phục biểu), c̣n có “复里” (phục lư) không những có biểu chứng lại c̣n lư chứng, “半在里半在外也” (bán tại lư bán tại ngoại dă) nửa ở bên trong, nửa ở ngoài, phân tích so sánh như vậy để xác định “Thuần âm kết” là bệnh của ngũ tạng, “Dương vi kết”là bệnh của lục phủ, chúng không giống nhau. Đồng thời cho thấy, dương khí uất kết, có lúc chân tay lạnh, dùng thang Tiểu sài hồ để điều trị.
149 伤寒五六日,呕而发热者,柴胡汤证具,而以他药下之,柴胡证仍在者,复与柴胡汤。此虽已下之,不为逆,必蒸蒸而振,却发热汗出而解。若心下满,而硬痛者,此为结胸也,大陷胸汤主之;但满而不痛者,此为痞,柴胡不中与之,宜半夏泻心汤。C157
149 Thương hàn ngũ lục nhật, ẩu nhi phát nhiệt giả, Sài hồ thang chứng cụ, nhi dĩ tha dược hạ chi, Sài hồ chứng nhưng tại giả, phục dữ Sài hồ thang. Thử tuy dĩ hạ chi, bất vi nghịch, tất chưng chưng nhi chấn, khước phát nhiệt hăn xuất nhi giải. Nhược tâm hạ măn, nhi ngạnh thống giả, thử vi kết hung dă, Đại hăm hung thang chủ chi; Đăn măn nhi bất thống giả, thử vi bĩ, Sài hồ bất trúng dữ chi, nghi Bán hạ tả tâm thang. C157
Phương thang Bán hạ tả tâm
Tam lạng Khương Sâm chích Thảo Cầm
Nhất liên bĩ chứng ẩu đa tầm
Bán thăng Bán hạ táo thập nhị
Khứ tử tái tiễn thủ cổ châm
Bán hạ nửa thăng, tẩy (rửa)
Hoàng cầm Can khương Nhân sâmđều 3 lạng Hoàng liên 1 lạng Đại táo 12 quả (bổ) Cam thảo 3 lạng (chích)
Bảy vị nêu trên, dùng 1 đấu nước, nấu c̣n 6 thăng, bỏ bă, đun lại c̣n 3 thăng, uống lúc thuốc c̣n ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần.
Đoạn văn này tŕnh bày sau khi hạ nhầm Thiếu dương bệnh xuất hiện ba loại t́nh huống khác nhau, chúng có rất nhiều ư nghĩa biện chứng. Đoạn thứ nhất là “伤寒五六日,呕而发热者,柴胡汤证具,而以他药下之,柴胡证仍在者,复与柴胡汤。此虽已下之,不为逆,必蒸蒸而振,却发热汗出而解。” (Thương hàn ngũ lục nhật, ẩu nhi phát nhiệt giả, Sài hồ thang chứng cụ, nhi dĩ tha dược hạ chi, Sài hồ chứng như tại giả, phục dữ Sài hồ thang. Thử tuy dĩ hạ chi, bất vi nghịch, tất chưng chưng nhi chấn, khước phát nhiệt hăn xuất nhi giải.)
Đoạn văn thứ hai là “若心下满而硬痛者,此为结胸也,大陷胸汤主之。” (nhược tâm hạ măn nhi ngạnh thống giả, thử vi kết hung dă, đại hăm hung thang chủ chi.) Đoạn văn thứ ba là “但满而不痛者,此为痞,柴胡不中与之,宜半夏泻心汤。” (đăn măn nhi bất thống giả, thử vi bĩ, Sài hồ bất trúng dữ chi, nghi Bán hạ tả tâm thang.)
Đoạn thứ nhất Thiếu dương bệnh chính là “呕而发热者” (ẩu nhi phát nhiệt) Phát sốt và nôn, “呕而发热者,小柴胡汤主之” (ẩu nhi phát nhiệt giả, Tiểu sài hồ thang chủ chi), ẩu thổ phát sốt là biểu hiện của kinh Thiếu dương bị bệnh, khí cơ không thuận lợi, v́ thế “ẩu nhi phát nhiệt” là hội chứng tổng quát, là chứng đại biểu của thang Tiểu sài hồ. “柴胡汤证具” (Sài hồ thang chứng cụ) là có đủ hội chứng của thang Tiểu sài hồ, cần dùng thang Tiểu sài hồ để hoà giải Thiếu dương, “而以他药下之” (nhi dĩ tha dược hạ chi) chưa dùng thang Tiểu sài hồ, mà đă dùng thuốc để tả hạ, là điều trị sai lầm, đi ngược lại ba điều cấm kỵ của kinh Thiếu dương là cấm hăn, cấm hạ và cấm thổ.
Đến hội chứng của Kim Nguyên tứ gia, Lư Đông Viên c̣n cấm cả lợi tiểu tiện, tam cấm biến thành tứ cấm. Sau khi hạ nhầm có biến hoá hay không? Nếu bệnh nhân có sức khoẻ tốt, tuy đă ngộ hạ, là “柴胡证仍在者” (Sài hồ thang chứng nhưng tại giả) chứng trạng của thang Tiểu sài hồ vẫn tồn tại, bệnh tà ở kinh Thiếu dương chưa hăm vào trong, th́ “复与柴胡汤” (phục dữ Sài hồ thang) là c̣n có thể cho bệnh nhân uống thang Sài hồ. Tại sao gọi là “phục dữ” ? V́ lẽ ra đă nên cho bệnh uống từ lần thứ nhất, nếu như sau khi ngộ hạ mà chứng trạng của thang Tiểu sài hồ vẫn tồn tại, không nên do dự cần phải cho bệnh nhân uống thang Sài hồ.
“复与柴胡汤,此虽已下之,不为逆”Phục dữ Sài hồ thang, thử tuy dĩ hạ chi, bất vi nghịch”, tuy đă công hạ nhưng không tính là sai lầm, v́ sao? V́ tà khí của bệnh nhân không biến hoá (vẫn c̣n Sài hồ chứng). “必蒸蒸而振,却发热汗出而解” (Tất chưng chưng nhi chấn, khước phát nhiệt xuất nhi giải), là sau khi uống thang Sài hồ bệnh nhân sốt hầm hập, run rẩy, lại phát nhiệt, xuất mồ hôi mà giải trừ bệnh, là phép hoà giải, “未经误下,吃柴胡汤作解” (vị kinh ngộ hạ, ngật Sài hồ thang tác giải) chưa trải qua hạ nhầm, uống thang Sài hồ để ḥa giải, ở đây có điểm khác biệt, khác biệt ở điểm nào? Sau khi ngộ hạ, tuy Sài hồ chứng vẫn c̣n, cuối cùng là chính khí và khí của tỳ vị bị tổn thương ở một mức độ nhất định, lại uống thang Tiểu Sài hồ thanh nhiệt, hoà giải bệnh tà ở kinh Thiếu dương, loại “tác giải” (giải bệnh) này cần h́nh thành chiến hăn (xuất mồ hôi, rét run) để giải trừ bệnh. “Chưng chưng” là hai từ h́nh dung chính khí từ bên trong hướng ra ngoài kháng cự bệnh tà. Ở nông thôn gọi là run rẩy, phát rét kéo dài 2,30 phút, sau đó lại phát sốt, người bệnh trước ớn lạnh sau lại phát sốt là biểu hiện của chính khí kháng cự ngoại tà xuất ra ngoài, v́ thế xuất mồ hôi mà giải trừ bệnh. Có thuyết gọi là chiến hăn tác giải (bệnh nhân lên cơn rét run xuất mồ hôi để giải trừ bệnh), v́ sao lại gọi là chiến hăn tác giải? V́ đă ngộ hạ một lần th́ có t́nh huống như vậy. Các bạn có thể sau khi đọc đoạn văn này sẽ đưa ra kết luận như vậy, sau khi ngộ hạ Thiếu dương chứng, lại uống thang Tiểu sài hồ, sẽ chiến hăn để giải bệnh. Không sai, Thương hàn luận viết như vậy, sự việc này cũng không nên quá máy móc, có người không trải qua ngộ hạ, uống thang Tiểu sài hồ cũng xuất hiện, “蒸蒸而振,却发热汗出而解” (chưng chưng nhi chấn, khước phát nhiệt hăn xuất nhi giải) sốt hầm hầm rét run, phát sốt, xuất mồ hôi giải trừ bệnh. Đây là một t́nh huống, sau khi ngộ hạ Thiếu dương, c̣n có thể uống thang Tiểu sài hồ.
“若心下满而硬痛者,此为结胸也” (Nhược tâm hạ măn nhi ngạnh thống giả, thử vi kết hung dă), nếu không “柴胡证仍在” (sài hồ chứng nhưng tại) sài hồ chứng c̣n tồn tại, mà xuất hiện tâm hạ kết măn (dạ dày kết đầy), ấn vào thấy cứng và đau, là đă biến thành chứng kết hung. Bán biểu bán lư của Thiếu dương, nhiệt của bán biểu đă tiến vào rồi, nhiệt kết với thuỷ thành chứng kết hung, đây là một đề pháp mới, không giống với những ǵ chúng ta đă học.
Bởi v́ “太阳病下之后,热入因作结胸” (Thái dương bệnh hạ chi hậu, nhiệt nhập nhân tác kết hung), ngộ hạ Thái dương, nhiệt nhập vào trong làm thành chứng kết hung, đây chính là ngộ hạ Thiếu dương, chính là bệnh tà ở Thiếu dương cấu thành kết hung, v́ thế đường đi của bệnh khác nhau. Đă cấu thành chứng kết hung rồi th́ cũng không có ǵ khác biệt, thang Đại hăm hung chủ trị bệnh này.
“但满而不痛者,此为痞” (Đăn măn nhi bất thống giả, thử vi bĩ), nếu như bệnh nhân này tâm hạ măn (tâm hạ đầy), chính là tâm hạ đầy trướng nhưng không đau, chỉ là tâm hạ măn, “đăn” là có ư giới hạn, “đăn măn” là chỉ đầy chứ không có các vấn đề khác như cứng hoặc đau. “此为痞”(Thử vi bĩ) gọi là chứng bĩ (bế tắc) ở đây gọi là “心下痞” (tâm hạ bĩ). “柴胡不中与之” (Sài hồ bất trúng dữ chi), thang Sài hồ không phù hợp với bệnh này, cũng không thể cho bệnh nhân này uống thang Đại hăm hung, v́ sao? V́ đây là chứng “tâm hạ bĩ”, “Tâm hạ bĩ” là do sau khi ngộ hạ Thiếu dương, khí của tỳ vị bị tổn thương, khí của tỳ vị thăng giáng không điều hoà, phản ảnh ở tâm hạ là nơi qua lại, giao thông, xuất nhập của khí nên đă phát sinh bệnh biến bĩ tắc, v́ thế gọi là bế tắc ở tâm hạ .
Ngoài ra, căn nguyên của bệnh này là “呕而发热者” (ẩu nhi phát nhiệt giả) ẩu thổ mà phát sốt, ẩu thổ đều là do vị khí bất hoà, trong dạ dày có đàm, v́ thế nó tạo thành tâm hạ bĩ của Bán hạ tả tâm thang chứng, loại tâm hạ bĩ này người xưa c̣n gọi là “đàm khí bĩ”. “Bĩ” là ǵ? Bĩ là tắc, chính là bĩ tắc, không thông, ủng tắc (tắc nghẽn). V́ sao gọi là tắc nghẽn, bế tắc? V́ khí của tỳ và vị thăng giáng không điều hoà, nếu như khí có thể thăng lên mà thăng lên được, khí có thể giáng xuống mà giáng xuống được, thăng lên giáng xuống đều b́nh thường, th́ sẽ không sợ bị nghẹt tắc ở đây. Hiện tại thăng giáng của khí không thuận lợi, vị khí cần hạ th́ không hạ, tỳ khí cần thăng th́ không thăng, v́ thế nơi đây bị nghẹt tắc (bĩ). Tại sao lại bĩ ở tâm hạ, mà không trừ bĩ trong bụng? V́ lồng ngực thuộc dương, bụng thuộc âm, “hung vi dương, phúc vi âm” (胸为阳,腹为阴), tâm hạ là ranh giới, ở giữa ranh giới, ở trên mà không tiếp nối với bên trên, ở dưới mà không tiếp nối với bên dưới, không trên không dưới, nơi đây là nơi giao hoán (trao đổi) âm dương, v́ thế nơi này phát sinh bĩ tắc là có đạo lư của nó.
Khí Thiếu dương bất hoà, chính là khí của bán biểu bán lư bất hoà, bán biểu bán lư bất hoà là xem xét theo các phương diện tung và hoành (ngang dọc), chính là xem xét như thế, khí bán biểu bán lư bất hoà là xem xét theo hoành diện (mặt ngang). Đây là theo hoành diện, đây là theo tung diện (mặt dọc). Xem xét theo khía cạnh này th́ nơi đây là bán thượng bán hạ (nửa trên nửa dưới), nh́n theo phương diện khác th́ chính là bán biểu bán lư (nửa ngoài nửa trong), v́ thế đều ở điểm đầu mối của âm dương, có đúng không? V́ thế khí âm dương của tỳ vị, tạng tỳ thuộc âm, vị thuộc dương, khí của tỳ vị thăng giáng không điều hoà, phản ứng bệnh biến của nó chính là ở tâm hạ, thang bán hạ tả tâm, thang Sinh khương tả tâm, thang Cam thảo tả tâm, ba phương thang này đều được gọi là phép hoà giải, đều chính là phép “khứ chỉ trùng tiễn” (bỏ bă nấu lại), đều chính là phép biến hoá của thang Tiểu sài hồ, nên chú ư đến điểm này. Tại sao ở đây lại nói “Sài hồ bất trúng dữ chi dă”? (Sài hồ không tương thích với nó) Đoạn thứ nhất nói về Sài hồ, đoạn thứ hai nói về thang Đại hăm hung, câu dưới nói chung, Sài hồ thang cũng được, thang Đại hăm hung cũng được, thế nhưng đều không thể uống, tại sao như vậy? V́ bệnh này tương tự như Thiếu dương mà không phải là Thiếu dương.
Bị nghẹt tắc, sợ hăi, tâm hạ bĩ (bế tắc ở dưới tim), có điểm giống như Thiếu dương bệnh, nhưng lại không có chủ chứng là khó chịu ở ngực và cạnh sườn, v́ thế nó không phải là Thiếu dương. Khi biện chứng không cần nghĩ đến Sài hồ thang chứng, hiện tại không có chứng trạng khó chịu ở ngực sườn của Thiếu dương, chỉ có một chút “muộn” (phiền muộn) ở tâm hạ, tựa như chứng kết hung mà không phải kết hung, tâm hạ cứng đầy, tâm hạ cứng và đầy có khi tựa như chứng kết hung, nhưng không đau, không “án chi thạch ngạnh” (ấn vào cứng như đá) v́ thế đây không phải là chứng kết hung, nên không thể uống thang Đại hăm hung. Nên uống ǵ? Nên uống thang Bán hạ tả tâm.
Bán hạ tả tâm thang là chủ phương trong ba thang tả tâm. Sinh khương tả tâm, Cam thảo tả tâm, bán hạ tả tâm đều gọi là thang Tả tâm, đều dùng để điều trị chứng tâm hạ bế tắc của tỳ vị bất hoà. Trong ba phương thang này, đứng đầu là thang Bán hạ tả tâm, là chủ phương của tả tâm thang. Chứng trạng chủ yếu của thang Bán hạ tả tâm, một là chứng ẩu (nôn, ói), tâm hạ nghẹt tắc nôn ói, hai là đại tiện không điều hoà, nhưng không đến nỗi tiêu chảy, v́ tại sao? V́ bệnh này chính là “以他药下之” (dĩ tha dược hạ chi) dùng thuốc khác để công hạ, v́ thế tỳ khí bất thăng, sẽ có chút chứng trạng đại tiện không điều hoà, vị khí không giáng sẽ gây ẩu thổ, đồng thời tâm hạ bĩ (bế tắc). Bệnh này là do khí bĩ, khác với nhiệt kết với thuỷ của chứng kết hung. Thang Bán hạ tả tâm v́ sao dùng Bán hạ làm tên phương thang? Một là chứng này có ẩu thổ, Bán hạ có nhiều khả năng trị ẩu thổ, có thể trừ khứ đàm thuỷ, {Thần nông bản thảo kinh} viết, Bán hạ có thể trị chứng thương hàn hàn nhiệt, tâm hạ kiên (tâm hạ bị cứng) “Hung trướng khái nghịch” (tức ngực, ho), v́ thế Bán hạ có thể trị chứng bĩ kết ở dưới tim, mà c̣n rất kiên cố nữa, nên gọi là “bĩ kết”. Phương pháp dụng dược của Trương Trọng Cảnh không phải là bản thảo học của đời sau, mà là một số quy luật dụng dược thời nhà Hán, v́ thế phương cách học Thương hàn luận, t́m hiểu Thương hàn luận , có lúc phải xem Thần nông bản thảo kinh, Thần nông bản thảo kinh c̣n phản ảnh được một số quy luật dụng dược của Trương Trọng Cảnh.
Bán hạ có thể trị chứng tâm hạ bĩ, tâm hạ bĩ kết, chúng ta nói rằng Bán hạ tả tâm thang là phương đại biểu của ba thang tả tâm, lư do chính là ở đây. Thành phần của thang Bán hạ tả tâm gồm 7 vị thuốc, thực tế chính là thang Tiểu sài hồ giảm bỏ vị sài hồ, gia thêm vị Hoàng liên, vị Sinh khương đổi thành Can khương, thay một vị thuốc, đổi một vị thuốc. Thang Tiểu sài hồ bỏ vị Sài hồ, v́ không khó chịu ở ngực và sườn, là chứng tâm hạ bĩ, là vấn đề của dạ dày, không phải vấn đề của Thiếu dương. Phương thang có ba nhóm thuốc, một là các vị thuốc có vị cay gồm Bán hạ, Can khương; Hai là các vị thuốc đắng gồm Hoàng cầm, Hoàng liên; ba là các vị thuốc ngọt gồm Nhân sâm, Cam thảo, Đại táo. Người xưa khái quát gọi là “辛开苦降甘调之法” (Tân khai khổ giáng cam điều chi pháp). Phép “Tân khai khổ giáng cam điều”, đây là phương pháp giải thích phương dược thời cổ đại (vị cay khai mở, vị đắng giáng xuống, vị ngọt điều hoà).
Khi bạn đọc {Chú giải Thương Hàn Luận} của Thành Vô Kỷ, sẽ thấy ông ta giải thích về thuốc rất đơn sơ mộc mạc, không hoa mĩ và chi tiết như các đời sau, người ta chỉ nói khổ dĩ giáng chi, tân dĩ tán chi (vị đắng th́ giáng xuống, vị cay th́ tán)và chỉ như thế là hoàn tất, là giải thích căn cứ theo phương pháp dùng thuốc thời cổ đại. {Hoàng đế Nội kinh} viết “酸苦涌泄为阴,辛甘发散为阳” (Toan khổ dũng tiết vi âm, tân cam phát tán vi dương) vị chua đắng tiết ra mạnh mẽ là âm, vị cay ngọt phát tán là dương, khái niệm về âm dương rất mộc mạc đơn sơ, không tinh tế. Khí âm dương đă bế tắc, nói một cách cụ thể là khí tỳ vị thăng giáng ở đây bị bế tắc, lấp kín, giao thông không thuận lợi, việc điều trị phải điều hoà tỳ vị, v́ thế phương thang này được gọi là phép hoà giải. Tỳ thuộc hàn, vị thuộc nhiệt, đại biểu cho âm dương, Hoàng cầm, Hoàng liên giáng nghịch của vị khí, nó hạ xuống, khổ giáng (vị thuốc đắng th́ giáng xuống); Can khương, Bán hạ là những vị thuốc có vị cay, có khả năng tán hàn của Tỳ khí; Lại thêm những vị thuốc ngọt, Nhân sâm, Cam thảo có tác dụng bổ trung ích khí, điều hoà tỳ vị, bổ trung khí. Tại sao khí của Tỳ vị thăng giáng (lên xuống) không điều hoà? Chủ yếu là do tỳ vị bị tổn hại sau khi ngộ hạ như đoạn văn đă viết. Trên lâm sàng không thấy ngộ hạ, tỳ vị hư nhược cũng có thể xuất hiện t́nh trạng thăng giáng không điều hoà của tỳ vị bất túc (không đầy đủ), v́ thế cần gia thêm Nhân sâm, Đại táo, Chích Cam thảo, để bổ khí của tỳ vị, khi khí của tỳ vị đă đầy đủ, thăng giáng điều hoà, sẽ khỏi bệnh.
Ba thang Tả tâm của {Thương Hàn Luận} dùng điều trị bệnh dạ dày, hiện tại chúng ta gọi là “vị bệnh” trong phần tạp bệnh nội khoa, cung cấp một phương pháp điều trị bệnh dạ dày. V́ sao? V́ bệnh này nếu đơn thuần do nóng, đơn thuần do lạnh th́ dễ điều trị bệnh, nhưng khi bệnh tà hàn và nhiệt đan xen nhau, bệnh trở nên phức tạp khó điều trị, điều trị hàn chứng th́ ảnh hưởng đến nhiệt chứng của bệnh và ngược lại, nếu như không biết ư nghĩa của phương thang Tả tâm, không có lư luận chỉ đạo, trên lâm sàng khi điều trị bệnh này sẽ rất khó khăn, cũng có một chút hiệu quả, nhưng không triệt để, có khi dùng Hương sa lục quân tử, có cảm giác tốt hơn một chút, nhưng dường như không có tác dụng, ruột nóng cồn cào tệ hại, nôn ra nước chua, uống thuốc vào thấy nóng, nhanh chóng thay bằng Hoàng liên thanh vị thang; sau khi uống nước chua giảm một chút, cồn cào cũng giảm, nhưng phân lại lỏng nát, vẫn tồn tại hai vấn đề (hàn và nhiệt)không cân đối. khi giảng dạy ở Môn Đầu Cấu, người viết gặp một học viên bị đau dạ dày, vị khí bất hoà, tâm hạ bĩ (bế tắc ở tâm hạ) đă từng uống hơn 100 thang thuốc mà bệnh vẫn không khỏi, người viết cho uống thang Tả tâm, Bán hạ tả tâm, Sinh khương tả tâm, sau khi uống 5,6 thang th́ bệnh đă khỏi. Hiện nay bệnh này bao gồm các bệnh theo y học cận đại như viêm dạ dày, viêm dạ dày cấp và mạn tính, cũng bao gồm một số bệnh loét, loét dạ dày, loét ở đường tiêu hoá loại h́nh vị khí bất hoà, bệnh viêm gan tất cả chỉ cần có chứng trạng : Tâm hạ bĩ, khí hàn nhiệt thăng giáng không điều hoà, dùng các phương này đều có hiệu quả.
Chứng Bán hạ tả tâm thang tâm hạ bĩ c̣n gọi là đàm khí bĩ, bên trong có đàm, có căn cứ hay không? Trước đây người viết cũng không quá tin vào điều này, cho rằng người xưa chỉ nói vậy thôi, hơn nữa v́ phương thang có vị Bán hạ, mà có Bán hạ là nói đến đàm, gọi là đàm khí bĩ.
Trong một lần điều trị cho một bệnh nhân, là tài xế lái xe, uống nhiều rượu, bị chứng tâm hạ bĩ, lợm giọng ẩu thổ. Mạch huyền mà hoạt, mạch vô lực, “Mạch huyền hoạt” là biểu hiện của đàm ẩm. mạch vô lực là tỳ vị hư nhược, lại chính là chứng u thổ của tỳ vị ở tâm hạ, đây chính là Bán hạ tả tâm thang chứng. Cho uống nguyên phương Bán hạ tả tâm, sau khi uống xong anh ta nói thuốc mạnh lắm tôi đă khỏi bệnh, đúng giọng điệu của một tài xế, tôi hỏi uống thuốc vào anh thấy thế nào? Anh trả lời: Thuốc khá mạnh sau khí uống tôi nôn ra một ít đàm bọt và sau đó mọi chuyện đều tốt. Như vậy là có ra đàm, uống thang Tiểu hăm hung khạc ra đàm vàng, uống Bán hạ tả tâm khạc ra đàm trắng, v́ thế {Y tông Kim Giám} gọi là “Đàm khí bĩ” là có cơ sở thực tế.
Trường Xuân Ng Nghị
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-12-16 00:15:31
Từ điều 150 đến điều 154
150 太阳少阳并病,而反下之,成结胸,心下硬,下利不止,水浆不下,其人心烦。C158
150 Thái dương Thiếu dương tính bệnh, nhi phản hạ chi, thành kết hung, tâm hạ ngạnh, hạ lợi bất chỉ, thuỷ tương bất hạ, kỳ nhân tâm phiền. C158
Đoạn văn này thảo luận về trường hợp ngộ hạ khi hai kinh Thái dương và Thiếu dương cùng bị bệnh dẫn đến chứng ngưng kết ở ngực (kết hung), chứng tương tự như hội chứng nguy hiểm của kinh Thái âm.
Đoạn văn này có hai cách giải thích. Thành Vô Kỷ có cách kiến giải đặc biệt độc đáo, mà các nhà chú thích khác không có. Thành Vô Kỷ cho rằng, bệnh này có hai tầng, một tầng là Thái dương và một tầng là Thiếu dương, v́ hai kinh đều bị bệnh, sau khi ngộ hạ, bệnh của kinh Thái dương sẽ biến thành chứng kết hung, bệnh của Thiếu dương truyền vào bên trong th́ xuất hiện hạ lợi (tiêu chảy). Loại giải thích này là cách giải thích đặc biệt độc đáo, không có nhà chú thích nào có cách giải thích như vậy.
Vậy điều này có đúng không? Đây là việc rất đáng quan tâm, hăy cùng tham khảo. V́ đây là lời nói của một chuyên gia, nên ít nhiều cũng có đạo lư. Hai kinh Thái dương và Thiếu dương cùng bị bệnh, nên dùng thang Tiểu sài hồ, hoặc thang Sài hồ quế chi để giải trừ bệnh ở hai kinh Thái, Thiếu dương.
“而反下之,成结胸” (Nhi phản hạ chi, thành kết hung) việc tả hạ, ở đây lại nói là ngược lại (phản), là không đúng, v́ thế đă biến thành chứng kết hung.
Khi bệnh của kinh Thái dương nhập lư (vào trong), nhiệt kết với thuỷ, đă trở thành chứng kết hung. Sau khi thành chứng kết hung, tâm hạ ngạnh, cứng ở tâm hạ, trước đây chúng ta đă học, chứng kết hung th́ đại tiện bí kết, thậm chí kết hung tựa như Dương minh ,“ 不大便六七日,日晡所小有潮热” (Bất đại tiện lục thất nhật, nhật bô sở tiểu hữu triều nhiệt) 6,7 ngày không đi đại tiện, triều nhiệt nhẹ vào giờ thân (15~17h) là đúng. Ở đây không như vậy, ở đây gọi là chứng kết hung tựa như Thái âm, nhưng lại “下利不止,水浆不下” (hạ lợi bất chỉ, thuỷ tương bất hạ), tiết tả không ngừng, không ăn uống được, tương tự như bệnh ở Thái âm, “太阴之为病,腹满而吐,食不下” (Thái âm chi vi bệnh, phúc măn nhi thổ, thực bất hạ), “thực bất hạ” là bao gồm cả ăn và uống. Thái âm bệnh chính là, “食不下,水浆不下” (thực bất hạ, thuỷ tương bất hạ) không ăn uống được, “自利益甚” (tự lợi ích thậm). Chứng hạ lợi của Thái âm là “tự lợi ích thậm” là càng lúc càng trở nên tệ hơn. C̣n ở đây là “hạ lợi bất chỉ”(tiết tả không ngừng), cả hai có điểm tương tự. phần trước nói về chứng kết hung mà tựa như bệnh ở kinh dương minh, ở đây là chứng kết hung tựa như bệnh ở kinh Thái âm.
V́ sao xuất hiện chứng trạng lo lắng phiền muộn? Chính khí đă bị hư tổn, khí của tỳ vị cũng bị tổn hại, đồng thời tâm hạ c̣n ngạnh (cứng), c̣n ngưng kết ở ngực, chính khí hư và tà thực, v́ thế nên phiền muộn. Đoạn văn có nghĩa là sau khi ngộ hạ, bệnh tà của Thái dương và Thiếu dương xâm nhập vào trong tạo thành chứng kết hung.
Sau khi ngộ hạ khí của tỳ vị bị tổn thương, nhất là tổn thương khí Thái âm mà xuất hiện “下利不止,水浆不下” (hạ lợi bất chỉ, thuỷ tương bất hạ) đây là bệnh chứng rất nguy hiểm. Bệnh tà mạnh và chính khí hư yếu, v́ thế Dụ Gia Ngôn cho rằng đây là bệnh không có biện pháp điều trị, nhưng Trương Trọng Cảnh không cho rằng đây là chứng chết. Thành Vô Kỷ cho rằng bệnh phân thành hai tầng, bệnh tà ở kinh Thái dương sau khi ngộ hạ tạo thành chứng kết hung, bệnh tà của kinh Thiếu dương truyền vào trong, là khí của can đảm ảnh hưởng lên dạ dày, v́ thế xuất hiện “下利不止,水浆不入” (hạ lợi bất chỉ, thuỷ tương bất nhập).
Tóm lại, “下利不止,水浆不下” (hạ lợi bất chỉ, thuỷ tương bất hạ)tiết tả không ngừng, ăn uống không được chính là biểu hiện của tỳ vị thụ thương, chính khí thụ thương. V́ thế bệnh nhân không muốn ăn, đại tiện không ngừng, cứng ở tâm hạ. Nhưng từ đây có thể nhận ra, chứng này không đề cập đến chứng trạng đau đớn, ư tại ngôn ngoại (có hàm ư là) v́ đại tiện chỉ hơi lỏng, cho nên thực tà ngưng kết ở tâm hạ nhẹ hơn một chút so với chứng kết hung. Căn cứ theo phân tích của một vài nhà chú giải, ở đây không dùng thang Hăm hung.
Có thể sử dụng thang Hăm hung được không? Đă là “Thuỷ tương bất hạ, hạ lợi bất chỉ”(không uống được, tiết tả không ngừng) c̣n dùng thang Đại hăm hung, chắc chắn bệnh nhân không chịu nổi. Tỳ vị đều đă hư tổn, tựa như trị chứng thương hàn biểu thực, mạch Xích đă tŕ, vi, chính khí đă hư, nên dùng thang Tiểu kiến trung, không thể dùng thang Ma hoàng. Ở đây cũng như vậy, khí bên trong đă hư tổn nên không thể dùng thang Hăm hung.
Cuối cùng th́ dùng phương thang ǵ, không một ai có thể nói một cách cụ thể. Có người nói có thể dùng thang Lư trung để có tác dụng ấm áp, dù sao cũng nên bồi bổ, chú trọng về phép ôn bổ. Theo ư của người viết, ở đây sao không dùng thang Sài hồ quế chi can khương? V́ c̣n cứng ở tâm hạ, Sài hồ quế chi Can khương có tác dụng khai giải, Can khương, Cam thảo có tác dụng làm ấm Thái âm. Đây là ư kiến cá nhân, đề xuất để cùng tham khảo và không nhất thiết phải cho là đúng.
151 脉浮而紧,而复下之,紧反入里,则作痞。按之自濡,但气痞耳。C159
151 Mạch phù nhi khẩn, nhi phục hạ chi, khẩn phản nhập lư, tắc tác bĩ. Án chi tự nhu, đăn khí bĩ nhĩ. C159
Đây là đoạn văn thảo luận về chứng thương hàn biểu thực ngộ hạ mà thành chứng bĩ.
“Nhu” cũng có thể đọc là “nhuyễn”, ấn vào thấy nhu, hay ấn vào thấy nhuyễn (mềm) đều có thể được. “Mạch phù nhi khẩn” mạch phù khẩn là chứng thương hàn biểu thực, nên dùng thang Ma hoàng để phát hăn. “Nhi phục hạ chi”, thày thuốc lại dùng phép hạ, phép tả hạ này “khẩn phản nhập lư” (紧反入里), “khẩn” (紧) là chỉ về hàn tà, hàn tà đă nhập vào trong, hàn tà nhập vào trong th́ gây ra chứng bĩ. Đặc điểm của chứng bĩ là ǵ? Không giống với chứng kết hung, chính là “án chi tự nhu”(ấn vào thấy mềm), không phải “án chi thạch ngạnh”(ấn vào thấy cứng như đá), “án chi thạch ngạnh” là chứng kết hung. Bĩ, là ấn tay vào thấy rất mềm, không phải nước, không phải thực phẩm, mà là khí, “但气痞耳” (đăn khí bĩ nhĩ) là bĩ tắc của khí. So sánh đoạn văn này với bài giảng đă học trước đây, “太阳病误下之后,热入因作结胸” (Thái dương bệnh ngộ hạ chi hậu, nhiệt nhập nhân tác kết hung), “nhiệt nhập” (热入), nhiệt kết với thuỷ, chính là lấy dương nhập vào âm. V́ thuỷ thuộc âm, tà ở bên ngoài (biểu) hoá nhiệt nhập vào trong (lư), chính là nhiệt thêm vào âm, nhiệt kết với âm, nhiệt kết với thủy, v́ thế gọi là kết hung. Đây là đoạn văn đề xuất “Mạch phù nhi khẩn, khẩn phản nhập lư”(脉浮而紧,紧反入里) ở đây “khẩn” chính là “hàn”, hàn thuộc âm, sau khi ngộ hạ hàn tà nhập vào trong(lư), dương khí thụ thương. Nhiệt tà đă nhập lư, ngưng kết với âm, ngưng tụ với thuỷ, thành chứng kết hung; Sau khi ngộ hạ, tỳ vị bị tổn hại, hàn tà từ ngoài nhập vào trong, “âm lai thừa dương, âm gia vu dương” (阴来乘阳,阴加于阳) âm đến với dương, âm thêm vào dương, khí chính là thuộc dương, khí của tỳ vị bất hoà, v́ thế tạo thành chứng bĩ, khí đă bị bế tắc. Nhiệt nhập vào mà kết với thuỷ, là “Dương gia vu âm” (dương thêm vào âm); Hàn nhập vào với khí gây nghẹt tắc, chính là “Âm gia vu dương”(âm thêm vào dương), nhưng không có thực thể, không thực (chứng), không huyết, không đàm, chỉ là khí, v́ thế “đăn khí bĩ nhĩ”(但气痞耳) nhưng chỉ là khí bế tắc.
“Tâm hạ bĩ, đăn khí bĩ nhĩ”(心下痞,但气痞耳) Bế tắc dưới tim, chỉ là bế tắc của khí, câu này rất có ư nghĩa, trước đây chúng tôi không phát hiện vấn đề này trên lâm sàng, luôn nghĩ rằng ở phía dưới tim, vùng bụng trên có khí bế tắc, trên thực tế một số bệnh đôi khi vùng dưới tim ph́nh lên như một cái túi nhỏ, đôi khi to bằng quả trứng hoặc bằng nắm tay nhỏ, giống như một khối u, nhưng khi dùng tay ấn vào th́ thấy nó di động, không cứng và không có cảm giác đề kháng, sau khi thu tay lại th́ lại thấy ph́nh lên. Là cái ǵ vậy? “Đăn khí bĩ nhĩ” (但气痞耳) chỉ là khí thôi không có ǵ khác, điều này đồng dạng là cũng có thể dùng thang Tả tâm.
Chứng tâm hạ bĩ có đau không? Theo Trương Trọng Cảnh là không đau. “Đăn măn nhi bất thống giả, thử vi bĩ dă”(但满而不痛者,此为痞也). Thêm chữ “đăn” (nhưng), “đăn măn nhi bất thống giả”. Câu nói này rất giới hạn, chỉ là trướng đầy mà không đau. Điều này không hẳn là như vậy, chứng tâm hạ bĩ có đau, chứng đau này có thể chữa trị được, nhưng cơn đau này nhẹ nhàng hơn cơn đau của chứng kết hung. Đoạn văn này nói về đặc điểm của chứng bĩ, chính là khí bĩ (bế tắc do khí). So sánh với chứng kết hung, chứng kết hung là “nhiệt nhập nhân tác kết hung” (热入因作结胸)nguyên nhân do nhiệt nhập vào thành chứng kết hung, là thực chứng; Bĩ chính là “khẩn phản nhập lư” (紧反入里)thuộc chứng hư hàn.
152 太阳中风,下利,呕逆,表解者,乃可攻之。其人漐汗出,发作有时,头痛,心下痞,硬满,引胁下痛,干呕,短气,汗出,不恶寒者,此表解里未和也,十枣汤主之。C160
152 Thái dương trúng phong, hạ lợi, ẩu nghịch, biểu giải giả, năi khả công chi. Kỳ nhân thuỷ hăn xuất, phát tác hữu thời, đầu thống, tâm hạ bĩ, ngạnh măn, dẫn hiếp hạ thống, can ẩu, đoản khí, hăn xuất, bất ố hàn giả, thử biểu giải lư vị hoà dă, thập táo thang chủ chi C160
Phương Thập táo thang
Đại kích Nguyên hoa Cam toại b́nh
Diệu tương thập táo chử thang hành
Trúng phong biểu chứng toàn trừ tận
Lư khí vị hoà thử pháp tŕnh
Nguyên hoa ngao (nấu) Cam toại Đại kích Đại táo 10 quả bổ
3 vị trên bằng nhau, giă tán riêng. Dùng 1,5 thăng nước, trước tiên nấu 10 quả táo lớn, c̣n 8 hợp nước, bỏ bă, cho bột thuốc vào, người khoẻ uống 1tiền th́a, người gầy yếu uống nửa tiền, uống ấm, uống vào lúc sáng sớm. Nếu đi tả ít bệnh không hết, ban ngày uống thêm, gia thêm 0,5 tiền, sau khi nhanh chóng hạ lợi, dưỡng sức bằng cháo nhừ.
Đoạn văn này giới thiệu chứng trạng sau cùng của chứng kết hung, cũng chính là hiếp hạ huyền ẩm thập táo thang chứng trong {Kim quỹ yếu lược}. V́ sao ở đây lại giảng Thập táo thang chứng? Chính là để so sánh với chứng kết hung thuỷ nhiệt ngưng kết cứng như đá ở tâm hạ. “Thử biểu giải lư vị hoà dă”
(此表解里未和也) là câu trong ngoặc. Đoạn văn này nói về đang trong quá tŕnhThái dương bệnh trúng phong lại kế phát thuỷ ngưng kết. Ngưng kết của thuỷ có hai t́nh huống: Một là sào huyệt của thuỷ, gốc rễ của thuỷ. Sào huyệt của thuỷ ở đâu?, sào huyệt của thuỷ ở dưới sườn, cũng là gốc rễ của nó. Hai là ảnh hưởng của thuỷ, ảnh hưởng của thuỷ ở tam tiêu, thượng trung hạ tam tiêu đă bất lợi, đồng thời cũng dẫn đến khí doanh vệ bất hoà. Khi biện chứng cần chia thành hai vấn đề, một là cần t́m ra căn bản của nó, hai là xem xét ảnh hưởng của nó, sau đó sẽ điều trị bệnh.
“Thái dương trúng phong” (太阳中风), v́ lại xuất hiện có nước ở dưới cạnh sườn, mà nước làm cho tam tiêu không thuận lợi, xuất hiện ở bờ phía dưới th́ gây ra tiết tả, xuất hiện ở bờ phía trên th́ gây ra ẩu thổ, ở cơ biểu th́ doanh vệ bất hoà. “Biểu giải giả năi khả công chi”(表解者乃可攻之), đây là thuỷ tà nên công hạ, công hạ th́ biểu được giải, biểu tà của Thái dương đă giải, th́ có thể “công chi” công hạ, đây chính là tiền đề (điều kiện đầu tiên). Tiết tả, ẩu nghịch là những đề pháp chung, nhưng chưa nói cụ thể ở phần trước. Phần dưới nói một cách cụ thể “kỳ nhân thuỷ hăn xuất” (其人漐汗出), “thuỷ hăn xuất” (漐汗出), không quá nhiều mồ hôi, nhưng có mồ hôi. Thuỷ (漐), là toàn thân có một chút mồ hôi. “phát tác hữu thời” (发作有时), xuất mồ hôi từng chập (có lúc không xuất mồ hôi), chính là thuỷ tà đă ảnh hưởng khí doanh vệ bất hoà, có điểm giống như chứng Thái dương trúng phong, v́ thế mà xuất mồ hôi, thuỷ tà nghịch lên gây đau đầu, thuỷ tà ngưng tụ ở tam tiêu gây chứng tâm hạ bĩ, ngạnh măn (đầy cứng). Bệnh kết này rất giống bệnh kết hung.
“Dẫn hiếp hạ thống”(引胁下痛), đây là gốc rễ của bệnh, “dẫn” (引) là lôi kéo, lại giảng chữ “掣” (xế), lôi kéo. Tâm hạ bĩ và cứng đầy đến cạnh sườn, “胁” (hiếp) là đau ở hạ sườn, là một căn cứ của biện chứng lâm sàng, Đau khi trở ḿnh, khi cử động cũng đau, thậm chi đau cả khi ho hoặc nói to. Căn bản là ở hạ sườn, v́ thế “引胁下痛” (dẫn hiếp hạ thống) đau kéo xuống hạ sườn. “Dẫn hiếp hạ thống”có tính phổ biến, không chỉ v́ tâm hạ ngạnh măn, dẫn đến hạ sườn bị đau, khi ho, khi nói to, khi trở ḿnh mà ngay cả khi không chú ư cũng có khả năng gây đau ở cạnh sườn. V́ sao như vậy? V́ do thuỷ, sào huyệt của nó ở hạ sườn, v́ thế gọi là huyền ẩm (chỉ về thuỷ ẩm ở cạnh sườn mà sản sinh hội chứng, v́ nó trên không ở ngực, dưới không ở trong bụng, nên gọi là huyền ẩm “悬饮” (huyền= treo). Thường do ngoại cảm hàn thấp, thuỷ đ́nh trệ ở ngực sườn gây bệnh). Thuỷ tà thấm vào vị ( dạ dày), vị khí nghịch lên gây nôn khan; Thuỷ tà vào phế, phế khí không thuận lợi, v́ thế gây chứng thở ngắn, xuất hăn mà không sợ lạnh. Đây không phải là chứng Thái dương trúng phong. Thuộc chứng thuỷ tà khiến vị khí bất hoà.
Xét theo đoạn văn này, ba phần thượng trung hạ đều có thuỷ, phần thượng có đau đầu, tâm hạ cứng đầy ở phần trung tiêu, tiết tả ở hạ tiêu, tại phế gây thở ngắn, dẫn đến khí ở biểu bất lợi nên xuất hăn. “Thuỷ tà hạo hạo đăng đăng, mạc chi năng ngự”(水邪浩浩荡荡,莫之能御) Thuỷ tà to lớn mạnh mẽ, không thể chế ngự, ở khắp nơi. Khi biện chứng , nên nắm vững nguyên nhân sâu xa, nếu chỉ phân biệt từng chứng như đau đầu là ǵ?, nôn khan là do đâu? Tại sao hơi thở ngắn? phân biệt tới lui vẫn không nắm được nguyên nhân, càng phân biệt lại càng phức tạp.
Đây là những hậu quả ảnh hưởng của bệnh, chủ yếu là tâm hạ thống (đau phía dưới tim), tâm hạ bĩ ngạnh (bế tắc cứng ở dưới tim) liên quan với chứng đau ở dưới cạnh sườn, đau dưới sườn chính là nguyên nhân. Trên lâm sàng nếu xuất hiện rất nhiều vấn đề khí cơ không thuận lợi ở thượng trung hạ (trên, giữa và dưới), biểu lư (trong ngoài), nếu như “hiếp hạ đông thống”(đau ở dưới sườn) là chứng trạng rất rơ rệt, thậm chí không dám động vào v́ đau, như vậy nên nghĩ đến chứng hạ sườn có thuỷ ẩm, chính là vấn đề của chứng huyền ẩm. Phải làm thế nào? Dùng thang Thập táo. Thang Thập táo trị chứng hạ sườn có nước, thang Tiểu thanh long trị chứng tâm hạ thuỷ (dưới tim có nước), đây là hai chứng thuỷ của Trương Trọng Cảnh. Học tập phương thang này, c̣n cần kết hợp với luận thuật của {Kim quỹ yếu lược}, theo Kim quỹ yếu lược “Huyền ẩm”chính là đứng đầu trong “tứ ẩm”, huyền là treo. Tại sao lại gọi là “Huyền ẩm”?
Ư thứ nhất là huyền có nghĩa là treo, treo ở nơi giao thoa của xương sườn, ở giữa trên và dưới, không ở trên, không ở dưới, treo ở giữa, đây gọi là huyền ẩm.
Ư thứ hai là, treo lệch về một bên, không như chứng kết hung, chứng kết hung ở giữa, chứng huyền ẩm lệch về một bên, treo chính là có ư nói lệch về một bên. Thuỷ ẩm đă đ́nh lưu ở sườn, nơi đây chính là “Tả hữu giả, âm dương chi đạo lộ dă” (左右者,阴阳之道路也)trái phải là đường lối của âm dương, chính là đường lối của âm dương, v́ thế khi bị bệnh sẽ khiến doanh vệ bất hoà, ảnh hưởng sự thuận lợi của tam tiêu, khiến cho thuỷ khí tràn lan, xuất hiện một số chứng trạng đi kèm, chính là sào huyệt bệnh căn ở dưới cạnh sườn.
{Gia định huyện chí} có gi chép điều này, có thày thuốc tên là Đường Đức Minh, y thuật rất cao. Ông ta điều trị bệnh cho một người nữ họ Vơ ở Thái Thương (địa danh). Người này bị bệnh ǵ? Người này khí đứng hoặc ngồi th́ như người b́nh thường khoẻ mạnh, nhưng rất sợ nằm, khi nằm xuống th́ không thở được, như sắp chết, “Ngoạ giả khí quyết như tử”(卧者气厥如死) khi nằm xuống khí nghịch lên không thở được như sắp chết. Đă mời nhiều thày thuốc đến để trị bệnh nhưng đều không hiệu quả, khi bệnh nhân đứng th́ không sao, nhưng khi nằm xuống th́ không thở được, phải nhanh chóng ngồi dậy. Đường Đức Minh sau khi khám bệnh, chẩn đoán đây là chứng “Huyền ẩm”. “Huyền ẩm” tại sao khi nằm lại không thở được? V́ khi bệnh nhân nằm, nước sẽ gây nghẹt tắc ở trên, phế khí không thuận lợi; V́ sao khi bệnh nhân đứng lại dễ chịu? V́ khi đứng, nước đi xuống dưới, bên trên không bị che lấp, đương nhiên vẫn có các chứng trạng như đau ở hạ sườn, thở ngắn. Sau đó cho bệnh nhân uống Thập táo thang, sau khi uống thuốc bệnh nhân đi tả và khỏi bệnh.
Có thể nói ǵ về trường hợp này? Nước ở hạ sườn là vật hữu h́nh, có thể gây trở ngại cho khí cơ, {Thương Hàn Luận} không đề cập đến vấn đề này, {Kim Quỹ Yếu Lược} nói rằng, bệnh chi ẩm, ho gây khó chịu và đau ở ngực, “Chi ẩm, khái phiền hung trung thống giả, bất thốt tử, chi nhất bách nhật hoặc nhất tuế”(支饮,咳烦胸中痛者,不卒死,至一百日或一岁) Chi ẩm, ho phiền đau trong ngực, không đột tử, đến 100 ngày hoặc một năm) bệnh này ho, đau ngực không chết bệnh kéo dài, khoảng 1 năm hoặc 100 ngày, có lúc nặng lúc nhẹ, người này vẫn có những tiên lượng không tốt, v́ thế bệnh này rất nghiêm trọng.
Tóm lại, đau ở dưới cạnh sườn, tâm hạ cứng đầy, ho thở ngắn và ẩu thổ, dẫn đến đau dưới sườn là những chứng trạng cần nắm vững. Người bệnh này mặt thường có sắc xanh hoặc đen, tại sao mặt lại có màu xanh? V́ dưới sườn là vị trí của tạng can, cộng thêm thuỷ thuộc âm, nên sắc mặt bệnh nhân xanh, hoặc đen, đen là màu của thuỷ. Thập táo thang gồm “Đại kích Nguyên hoa Cam toại b́nh”, ba vị thuốc này, thuốc trừ thuỷ mạnh đều có, dùng trái táo lớn, không phải loại táo nhỏ, nấu thuốc với loại táo rất to, nấu đến khi thuốc đặc sệt, dùng Đại kích, Nguyên hoa, Cam toại mỗi vị khoảng từ 5 đến 7 phân (3g), không dùng nhiều hơn, nhiều nhất là 7 phân, dùng thang thập táo để uống. Uống vào lúc nào? “B́nh đán phục”(平旦服) uống vào buổi sáng lúc bụng đói. Sau khi uống bệnh nhân nhanh chóng đại tiện “khoái lợi”
(快利) đại tiện một cách khoan khoái, sau khi đại tiện là có thể khỏi bệnh. Nếu bệnh nhân không đại tiện th́ có thể tiếp tục uống thuốc.
Tại sao lại gọi phương thang này là “Thập táo thang”? Nước ở dưới sườn nếu không công hạ th́ không thể giải quyết bệnh, mà chính khí hư tổn là vấn đề phải chú ư, chỉ công trục tà khí, c̣n chính khí hư tổn th́ sao? Thành quả tả thuỷ của Đại kích, Nguyên hoa, Cam toại, uống vào là bệnh nhân liền đại tiểu tiện. Lúc này, nhất là khi dùng thuốc tả hạ mạnh như Đại kích Nguyên hoa, cần phải chú ư đến chính khí, chính khí trên cơ thể sẽ bị tổn hại khi sử dụng phép tả hạ, khí của tỳ vị cũng bị tổn thương. Đại kích, Nguyên hoa, Cam toại đều là những vị thuốc có độc, rất mănh liệt, muốn chế ngự bớt độc tính và tính mănh liệt của chúng cần phải có thuốc, khiến chúng chỉ có thể trừ khứ bệnh tà mà không gây tổn hại cho chính khí, hai phương diện này cần được chú ư. V́ thế, Trương Trọng Cảnh đă cảnh báo khi sử dụng các vị thuốc có độc tính mănh liệt như Đại kích, Nguyên hoa, Cam toại để trục khứ bệnh tà, phải chú ư đến các điều kiện như bảo tồn chính khí và tân dịch, “Bảo vị khí, tồn tân dịch”(保胃气,存津液) bảo vệ vị khí, bảo tồn tân dịch, từ đó có nhiều khả năng “âm dương tự hoà, tất tự dũ”(阴阳自和,必自愈) để âm dương có thể tự hoà, bệnh tự khỏi. Như thế, phương thang trên gia thêm 10 quả táo to và tốt, dùng nước táo để uống bột Đại kích, Nguyên hoa, Cam toại, là so sánh giữa chính khí và bệnh tà, ở đây chính khí là chủ yếu, mục đích của chúng ta là trừ khứ bệnh tà? Để bảo tồn chính khí, để chính khí hồi phục, xét từ ư nghĩa này, v́ thế gọi phương thang này là “Thập táo thang”. Khi đề cập đến Thập táo thang, chúng ta đều biết đây là phương thang có tác dụng trục thuỷ, đồng thời cũng biết rằng khi dùng phương pháp trục thuỷ không được quên phù tŕ chính khí và bảo tồn tân dịch.
Phương thang này có thể dùng Nhân sâm, Hoàng kỳ không? Không được. Không dùng Đại táo, Đại kích, Nguyên hoa, Cam toại gia thêm Hoàng kỳ 20g, Nhân sâm 20g, như vậy có được không? Không được, v́ Đại kích, Nguyên hoa, Cam toại là ba viên mănh tướng, dùng Nhân sâm, Hoàng kỳ là thuốc bổ khí, như vậy là cản trở tác dụng của thuốc, bổ không bổ được, tả cũng không thể tả, nên không thể dùng Nhân sâm, Hoàng kỳ. Như vậy có thể dùng Cam thảo không? Cũng không được, v́ cổ nhân cho cho rằng Cam thảo đều phản với các vị thuốc trong bài “Tảo Kích Toại Nguyên câu chiến Thảo” (藻戟遂芫俱战草) Hải tảo, Đại kích, Cam toại, Nguyên hoa đều phản Cam thảo, thuộc thập bát phản. Đại táo chính là thuốc của tỳ vị, có vị ngọt và nhiều thịt, càng nhai càng nhiều tân dịch, trong thịt táo có chất dầu, như chúng ta có thể ăn điểm tâm bằng nhân táo, táo có chất dầu nên táo có tác dụng bổ khí, bổ tân dịch. {Thần nông bản thảo kinh} mở đầu với công năng của vị Đại táo, có tác dụng bổ khí và bổ tân dịch, theo tiền đề này, vị Đại táo phối hợp với Đại kích, Nguyên hoa, Cam toại là phi thường thoả đáng. V́ thế Đại táo vừa có khả năng bổ tỳ, lại có thể khôi phục tân dịch, đồng thời đại táo có vị ngọt, vị ngọt lại có chút hoà hoăn, “Cam dĩ hoăn chi” (甘以缓之) vị ngọt của Đại táo khiến cho tính mănh liệt của Đại kích, Nguyên hoa, Cam toại không đến mức gây tổn hại cho chính khí. Ở phương bắc dùng Thập táo thang. Đại táo vùng Hà nam quả rất to. Loại táo ở Bắc kinh có quả bé, nên gọi là tiểu táo, đây là loại táo đặc biệt quả rất bé, với loại táo quả bé này, khi dùng thang thập táo có thể tăng 20, 30 quả, v́ sao? V́ một quả bé th́ hai quả không phải là nhiều, tăng số lượng lên là vừa đủ. V́ thế nên xuất phát từ thực tế, không phải Trương Trọng Cảnh dùng thang Thập táo là cứ phải tuân thủ một cách máy móc, phải xem táo lớn hoặc bé, xem thịt táo dày hay mỏng, để dùng lượng táo thích đáng th́ mới có thể thu được hiệu quả đúng mực của thang Thập táo.
Hôm qua tôi đi họp, có đồng chí họ Lâm, người miền Nam ở Báo Khoa học và Công nghệ đến đưa tin. Anh cho biết ḿnh bị viêm màng phổi từ khi c̣n nhỏ, trong khoang màng phổi có nước, rất khó chịu. Chụp X-quang như vậy th́ mực nước từ lâu vẫn c̣n rất cao.
Cha của anh ấy là một bác sĩ Trung y, anh ấy muốn dùng thang Thập táo, nhưng anh ấy không thể quyết định? V́ vậy, anh ấy đă đưa một trong những tiền bối của cha ḿnh vào và giúp anh ấy thực hiện ư tưởng của ḿnh. “Dựa theo X quang của anh Lâm có nên sử dụng Thập táo thang không là vấn đề được đưa ra thảo luận”, vị sư huynh có ư kiến phải dùng thang Thập táo, không có phương pháp nào khác, chỉ có thể dùng thang Thập táo để công trục thuỷ tà. Sau khi uống thang Thập táo, có tác dụng tả hạ tốt, và chỉ một lần là khỏi bệnh. V́ thế vị đồng chí họ Lâm rất nhiệt t́nh tham gia hội nghị nghiên cứu Trung y của chúng tôi. Ông ta nói, phụ thân tôi là Trung y, tôi đă trải qua thời gian bị bệnh, chính là được khỏi bệnh sau khi uống thang Thập táo, ông ta hỏi tôi, ông Lưu, ông có biết hay không biết về thang Thập táo này?, tôi trả lời là biết, không những thế hiện nay tôi c̣n đang giảng về nó. Không cần rút nước ở trong ngực, v́ thế chúng ta có thể nói thang Thập táo có thể trị chứng viêm hung mạc, viêm lặc mạc (viêm màng phổi, viêm màng sườn), trên tạp chí không chỉ báo cáo một vài mà là rất nhiều trường hợp như vậy.
153 太阳病,医发汗,遂发热恶寒,因复下之,心下痞,表里俱虚,阴阳气并竭,无阳则阴独,复加烧针,因胸烦,面色青黄,肤瞤者,难治;今色微黄,手足温者,易愈。C161
153 Thái dương bệnh, y phát hăn, toại phát nhiệt ố hàn, nhân phục hạ chi, tâm hạ bĩ, biểu lư câu hư, âm dương khí tính kiệt, vô dương tắc âm độc, phục gia thiêu châm, nhân hung phiền, diện sắc thanh hoàng, phu nhuận giả, nan trị; Kim sắc vi hoàng, thủ túc ôn giả, dị dũ. C161
Đây là đoạn văn thảo luận về việc sau khi điều trị sai lầm, tạo thành chứng tâm hạ bĩ, chứng tâm hạ bĩ lại gia thêm thiêu châm, khí ở biểu và lư đều bị hư tổn, tiên lượng có tốt, có xấu.
“Thái dương bệnh, y phát hăn”(太阳病,医发汗) Bệnh ở kinh Thái dương dùng phép phát hăn là việc làm đúng. “Toại phát nhiệt ố hàn”(遂发热恶寒), “遂” (toại) hiểu là “kế tục”, là c̣n tiếp tục phát nhiệt ghét lạnh, điều này cho thấy bệnh tà ở biểu chưa được giải trừ, biểu bệnh chưa giải trừ th́ phải làm sao? Tái phát hăn, trước đây chúng ta đă thảo luận về vấn đề này, một lần phát hăn mà bệnh chưa khỏi, có thể phát hăn thêm một lần. Thày thuốc v́ phát hăn chưa tốt, lại “Nhân phục hạ chi” (因复下之) lại dùng phép tả hạ, đây chính là điều trị sai lầm. Dùng phép tả hạ sẽ gây tổn thương khí của tỳ vị, đồng thời sẽ khiến bệnh tà ở biểu xâm nhập vào trong, tạo thành chứng tâm hạ bĩ tắc. Do trong quá tŕnh điều trị, đă phát hăn, lại trải qua tả hạ, v́ thế “biểu lư câu hư, âm dương khí tính kiệt” (表里俱虚,阴阳气并竭) biểu và lư đều đă bị hư tổn, “âm dương” cũng là có ư chỉ về biểu lư, khí của biểu lư “tịnh kiệt”, (đều suy kiệt), “kiệt” là suy kiệt. Ở mức độ nào? “Vô dương tắc âm độc”, “vô dương”, có nghĩa là không có bệnh tà ở biểu, “tắc âm độc”là bên trong tồn tại tâm hạ bế tắc (bĩ). Lúc này, thày thuốc thấy tâm hạ bĩ cứng, liền cho rằng là hàn chứng, v́ thế nên “phục gia thiêu châm” lại sử dụng thiêu châm, thiêu châm này không phải để kiệt hăn (hết mồ hôi), mà chính là để trị chứng tâm hạ bĩ.
“Nhân hung phiền” (因胸烦) lồng ngực khó chịu, sau khi dùng thiêu châm, xuất hiện lồng ngực khó chịu. Lồng ngực khó chịu như thế nào? Tim phiền muộn, không phải lồng ngực bực bội, v́ thế chứng ngực khó chịu bao gồm trong ngực nóng, tâm lư buồn bực. Đây là phản ảnh của thiêu châm dẫn đến hoả nhiệt ảnh hưởng đến tim và lồng ngực. Lúc này c̣n có tâm hạ bĩ, biểu lư đều hư kiệt, c̣n có hư phiền do ngộ trị âm hoả gây ra, v́ thế bệnh này là do chính khí bị hư tổn.“ Diện sắc thanh hoàng, phu nhuận giả, nan trị”( 面色青黄,肤瞤者,难治) Sắc mặt bệnh nhân xanh vàng. Xanh vàng là màu lục, vàng là sắc của tạng tỳ, xanh là sắc của tạng can, sắc mặt xanh vàng không tươi nhuận, là biểu hiện của can mộc khắc tỳ thổ. Cộng thêm da thịt bệnh nhân máy động, “phác phác” (扑扑)máy động, là biểu hiện khí của hai tạng phế tỳ đều bị hư tổn. Tạng phế hợp với da, tạng Tỳ hợp với cơ nhục, khí của Phế Tỳ hư tổn, khí của cơ nhục sẽ không đầy đủ, v́ thế nên da thịt máy động. “Diện sắc thanh hoàng” (面色青黄) xanh vàng là màu sắc tương khắc, mộc khắc thổ, can khắc tỳ, “cơ phu nhuần động” (肌肤瞤动) lại là một hiện tượng khí của phế và tỳ bị hư tổn, v́ thế nên bệnh khó điều trị. “Nan trị” không phải là chứng chết, chỉ là có những khó khăn trong điều trị bệnh, cần nhiều thời gian điều trị, không phải một hai thang thuốc mà có thể trị khỏi bệnh. Nếu như không có sắc xanh, có sắc vàng nhẹ, chính là sắc của tỳ vị; Tay chân ấm, là dương khí không bị hư tổn, khí của tạng tỳ đi đến tứ chi, bệnh này sẽ dễ điều trị. V́ thế sau khi ngộ trị (điều trị sai lầm) xuất hiện chứng tâm hạ bế tắc, nếu như khí của tỳ vị không suy là bệnh dễ điều trị. Như vậy có hàm ư, chứng tâm hạ bĩ, nếu như khí tỳ vị suy, can khí lại thừa (lấn át) tỳ vị, mặt có màu xanh lục là biểu hiện của bệnh không dễ điều trị.
154 心下痞,按之濡,其脉关上浮者,大黄黄连泻心汤主之。C162
154 Tâm hạ bĩ, án chi nhu, kỳ mạch quan thượng phù giả, Đại hoàng Hoàng liên tả tâm thang chủ chi. C162
Phương thang Đại hoàng Hoàng liên tả tâm thang
Bĩ chứng phân kỳ biện hướng xu
Quan phù tâm bĩ án chi nhu
Ma phí thang tứ khu bệnh hoăn
Đại hoàng 2 lạng Hoàng liên 1 lạng
Hai vị thuốc trên, với Ma phí thang 2 thăng ngâm tẩm, một lát sau chắt lấy nước bỏ bă, chia ra uống thuốc ấm.
Đây là đoạn văn giới thiệu mạch chứng và phép trị liệu của chứng bĩ tắc do hoả. Chứng bĩ có thuỷ có hoả, tâm hạ bĩ có khi thuộc về hoả, có khi thuộc về thuỷ. Đoạn văn này rất đơn giản, triệu chứng chính là ǵ? Là “tâm hạ bĩ”, đây là chứng tâm hạ bị lấp kín, bế tắc, khí không thông. Chứng tâm hạ bĩ th́ y sinh tiến hành phúc chẩn, sờ nắn bằng tay trên bụng bệnh nhân. V́ cần phải chẩn đoán phân biệt với chứng kết hung, nói rằng “按之濡” (án chi nhu), “按之软” (án chi nhuyễn), ấn vào không cứng, không phải “按之石硬者” (án chi thạch ngạnh) cũng không “按之疼痛” (án chi đông thống), mà ấn vào chỉ thấy mềm mại, không có ǵ khác, không phải thuỷ, đàm, huyết, thực phẩm. “Án chi nhu” ấn tay vào thấy mềm mại ba chữ này rất có ư nghĩa chẩn đoán.
Sau đó sẽ cần phải thiết mạch, nguyên nhân v́ chứng tâm hạ bĩ “án chi nhu” (ấn vào thấy mềm có rất nhiều, bán hạ tả tâm thang đều như vậy. “Kỳ mạch quan thượng phù giả” (其脉关上浮者) , đột xuất (nổi bật) “quan thượng”, “quan thượng” là mạch quan, trên quan mạch xuất hiện phù là xuất hiện dương mạch, “phù” ở đây là có ư nói về dương mạch, không cần phải quá câu nệ g̣ bó khi cho rằng cứ quan bộ là mạch phù, thấy mạch phù cũng được mà thấy mạch sác cũng được. Phàm chính là thấy dương mạch, thuộc dương tính như các mạch đại, phù, sác, động, hoạt là các mạch thuộc dương. Như vậy “quan” thuộc tỳ vị, “Quan hậu tỳ vị, thốn hậu tâm phế xích hậu thận can” (关候脾胃,寸候心肺,尺候肾肝) bộ quan đón xem tỳ vị, bộ thốn xem tâm phế, bộ xích xem thận can, ở đây thấy mạch phù, là mạch của nhiệt, đây là phản ảnh nhiệt bế tắc ở tâm hạ, chứng tâm hạ bĩ này thuộc nhiệt mà không thuộc hàn. Liên hệ giữa chẩn mạch và hội chứng, liền biết rằng chứng bĩ của người này là do hoả nhiệt. Nếu là chứng thuỷ bĩ hoặc chứng kết hung th́ sẽ thấy mạch trầm. Hiện tại là mạch phù, là dương mạch, ở khí phận, khá nhẹ nhàng, mà không ngưng tụ ở bên trong, v́ thế nên thấy tâm hạ mềm mại, ấn vào không thấy vật ǵ, chính là khí hoả nhiệt bĩ tắc không tan gây ra.
Như vậy chúng ta có thể thấy các chứng trạng này rất rơ ràng trên lâm sàng không? Không thể. C̣n có nhiều vấn đề, những vấn đề ǵ? V́ có nhiệt, “kỳ mạch quan thượng phù giả” (其脉关上浮者), có mạch sác trên bộ quan, hoặc mạch hoạt trên bộ quan, chỉ cần thấy mạch dương nhiệt, đương nhiên đó chính là phản ảnh của bệnh tà hoả nhiệt ở trong tâm hạ, đă có bệnh tà hoả nhiệt, nên bệnh nhân buồn bực khó chịu, v́ thế hội chứng chủ yếu của Đại hoàng Hoàng liên tả tâm thang là chứng bực bội, tâm phát phiền. Ngoài ra, tiểu tiện vàng, đai tiện thông, đại tiện không bí kết. V́ là chứng khí bĩ, đại tiện tuy thông nhưng không sảng khoái, nói chung là không hoàn toàn b́nh thường. Tâm hạ bĩ như vậy, kèm theo bực bội, đầu lưỡi hồng ráng, đại tiện tuy thông nhưng không sảng khoái, tiểu tiện vàng, có thể biết đây là chứng bĩ do nhiệt. Đây là một phương diện. Cũng có bệnh nhân tâm hạ bĩ đồng thời xuất hiện nục huyết (chảy máu mũi) và thổ huyết. Phải làm sao? “Đại hoàng hoàng liên tả tâm thang chủ chi” dùng hai vị Đại hoàng và Hoàng liên trị bệnh này, hai vị này đều đắng và lạnh (khổ hàn). Vị Đại hoàng có tính tả (bỏ bớt), để tẩy rửa vị tràng, có thể phá nhiệt kết, Hoàng liên có khả năng thanh nhiệt, nhưng lại tốt cho vị tràng. Loại h́nh thang tễ này dùng Ma phí thang “nhị thăng tí chi” là dùng nước sôi cuồn cuộn, nước sôi gọi là Ma phí thang, “tí chi” là ngâm hai vị Đại hoàng và Hoàng liên, thời gian ngâm không cần lâu dài. “Tu du” là một lát, là thời gian rất ngắn, rồi bỏ bă Đại hoàng và Hoàng liên đi. Sau đó uống nước thuốc vừa ngâm, “phân ôn tái phục”. Thang Đại hoàng Hoàng liên tả tâm không dùng phép sắc thuốc, mà dùng phương pháp ngâm thuốc vào nước sôi. V́ sao cần ngâm thuốc? V́ Đại hoàng và Hoàng liên tiết ra nhiều vị đắng lạnh (khổ hàn dũng tiết), là vị thuốc tả hạ đắng lạnh. Tâm hạ bế tắc là do nhiệt, nhưng là bĩ tắc ở khí phận, không có vật chất hỗ tương ngưng kết, chỉ là sự bĩ tắc của nhiệt khí, nếu không dùng thuốc khổ hàn th́ làm sao có thể tiêu trừ nhiệt khí, nhiệt tà? Nó không phải là thứ hữu h́nh nên không thể tả hạ. Với tiền đề như vậy, Trương Trọng Cảnh dùng phương pháp ngâm thuốc vào nước sôi để “thủ kỳ khí nhi bảo kỳ vị”(取其气而保其味) để giữ được tính hàn lương và vị của thuốc. Thời gian ngâm thuốc trong nước sôi rất ngắn, vị đắng không quá tệ, v́ vị đắng th́ tiết, như vậy có thể trị chứng bĩ nhiệt ở tâm hạ, mà không đến mức tả hạ mạnh. Thang Đại hoàng Hoàng liên tả tâm không dùng phép sắc thuốc, chỉ dùng phép ngâm thuốc vào nước sôi là được.
Người viết rất thích dùng phương pháp này, thường hay gặp trên lâm sàng. Trị các chứng như chảy máu mũi, đau răng, thổ huyết, buồn bực ở tâm hạ, ngủ không ngon, liền dùng một một ít Đại hoàng, Hoàng liên, hăm như hăm trà, uống vào hiệu quả vô cùng tốt. Phương thang này có tác dụng tả hạ nhẹ, nếu nói không có tác dụng tả hạ là không hiện thực, nhưng chính là tác dụng tả hạ của nó không quá tệ hại mà thôi. Thang Đại hoàng Hoàng liên tả tâm gia thêm vị Hoàng cầm là thành thang Tam hoàng tả tâm. Đây là một cổ phương, cũng không phải phương của Trương Trọng Cảnh. Trong y tịch của Thái thương công Thuần Vu Ư có Hoả tề thang được cho là thang Tam hoàng tả tâm. Cổ nhân dùng thang này trị chứng tâm hoả ở phụ nữ không hạ giáng, cho nên “bào mạch bế dă” kinh nguyệt không hành (bế kinh). V́ tâm chủ huyết mạch, thông vào nhau, thông vào tử cung. Nếu tâm hoả toàn bộ đi lên, không đi xuống th́ kinh nguyệt không đến. Kinh nguyệt không đến th́ con người vật vă rất khó chịu, thành bệnh về kinh nguyệt, v́ thế nên dùng phương pháp tả tâm, dùng phép tả tâm làm cho tâm hoả hạ giáng, huyết mạch của tâm đi xuống được th́ kinh nguyệt sẽ đến. Đường Dung Xuyên trong {Huyết chứng luận} trị chứng thổ huyết do nhiệt th́ phương đầu tiên sử dụng chính là thang Tả tâm. Thang tả tâm trị huyết chứng hiệu quả cực kỳ tốt. Đây chính là chứng nhiệt bĩ, và khi dùng Đại hoàng Hoàng liên tả tâm th́ nên dùng phép ngâm thuốc trong nước sôi.
Trường Xuân Ng Nghị
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-12-16 19:17:07
Từ điều 155 đến điều 161
155 心下痞而复恶寒,汗出者,附子泻心汤主之。C163
155 Tâm hạ bĩ nhi phục ố hàn, hăn xuất giả, Phụ tử tả tâm thang chủ chi. C163
Phương thang Phụ tử tả tâm
Nhất mai phụ tử tả tâm thang
Nhất lượng Cầm Liên nhị Đại hoàng
Hăn xuất ố hàn tâm hạ bĩ
Biệt chử khinh tứ yếu tham tường
Đại hoàng 2 lạng Hoàng liên Hoàng cầm đều 1 lượng Phụ tử một củ (?) nướng bỏ vỏ, đập vỡ, nấu riêng lấy nước
Bốn vị thuốc trên, cắt nhỏ ba vị, dùng Ma phí thang 2 thăng ngâm vào một lát.
Chắt bỏ bă, cho nước Phụ tử vào, phân làm hai lần uống lúc thuốc c̣n ấm.
Đoạn văn này tiếp theo đoạn văn trước, thảo luận về chứng trạng và trị liệu chứng nhiệt bĩ kèm theo biểu dương hư.
Nếu như đoạn văn trước nói về chứng trạng thang Đại hoàng Hoàng liên tả tâm là nhiệt bĩ, “nhi phục ố hàn hăn xuất giả” (而复恶寒汗出者), thay vào đó lại xuất hiện sợ lạnh, đồng thời tự đổ mồ hôi, đây chính là hàn nhiệt bĩ, thượng tiêu nhiệt, hạ tiêu hàn. Hạ tiêu dương hư hữu hàn, dương khí không sưởi ấm cơ biểu (da thịt ở phần biểu), v́ thế nên sợ lạnh; Dương khí không giữ được âm nên xuất mồ hôi.
Bệnh này là trên nóng dưới lạnh (thượng nhiệt hạ hàn), bên trên là tâm vị nóng, bên dưới là thận khí lạnh, chính là thận dương hư hàn của Thiếu âm. Tại sao sợ lạnh lại ở phía trước? Chính là do dương hư, “dương hư sinh ngoại hàn, âm hư sinh nội nhiệt” (dương hư sinh ra chứng lạnh ở bên ngoài, âm hư sinh ra chứng nóng ở trong). Dùng thang Phụ tử tả tâm để trị liệu, là phép dùng cả hàn và nhiệt, dùng Đại hoàng, Hoàng liên tả tâm, dùng Phụ tử cố biểu phù dương (kiên cố bên ngoài phù trợ dương khí)
Có người sẽ hỏi có bệnh như vậy sao? Chính xác là có bệnh như vậy. Phàm nếu ở trên nóng th́ ở dưới dễ bị lạnh, điều này không chỉ ở Đại hoàng Hoàng liên tả tâm thang chứng. V́ âm dương của cơ thể là hỗ tương hài hoà cân đối, nếu có nơi có quá nhiều dương khí bị uất, dương khí sẽ không thể chiếu nhập nhiều đến nơi khác, không thể hỗ tương nối liền, hỗ tương qua lại, từ đó sẽ tạo ra một nơi có hàn chứng. Sinh lư y học Đông y chẳng phải là tâm và thận tương giao, tâm hoả phải đi xuống để làm ấm thận dương, thận thuỷ phải đi lên để chế ước tâm hoả, như thế âm dương mới có thể giao tiếp, thuỷ hoả giúp đỡ nhau gọi là thuỷ hoả kư tế. Khi nhiệt bĩ tắc ở tâm hạ, hoả của tâm có thể tương giao với thận? Không thể, v́ nhiệt đă bĩ tắc ở trên nên không thể hạ giao và khi đó ở dưới bị lạnh. Điều này có nghĩa là có một khả năng như vậy trong bệnh lư, và t́nh trạng thượng nhiệt hạ hàn là điều không có ǵ đáng ngạc nhiên.
Bạn đồng học của chúng tôi họ Triệu là nữ, cha cô bị viêm gan, ông đến khám bệnh. Các triệu chứng như thế nào? Là khô miệng, khô tệ hại. Người viết dùng phép tư âm, dùng thang Sa sâm mạch đông, Ngọc địa mạch sa thang, sau đó dùng đến thang Bạch hổ, kết quả miệng bệnh nhân vẫn không giải quyết được chứng khô miệng. Không t́m ra biện pháp, người viết liền hỏi bệnh nhân ngủ như thế nào? Bệnh nhân ngủ không ngon, đêm ngủ hay mơ. Nh́n thấy đầu lưỡi bệnh nhân ửng đỏ, nên người viết nghĩ đến thận thuỷ không thăng, là do tâm hoả không hạ giáng, liền dùng thang Hoàng liên a giao kê tử hoàng, sau khi uống thuốc này th́ miệng bệnh nhân không c̣n khô nữa. Bạn có nghĩ rằng điều này là kỳ lạ? Do đó, nguyên lư này của Đông y đă thực sự đă thuyết phục được chúng ta. Hoàng liên, A giao, Kê tử hoàng không phải là những vị thuốc bồi bổ tân dịch cho cơ thể, chúng là những vị thuốc khổ hàn (đắng lạnh), có tác dụng giúp thận thuỷ thượng giao, giấc ngủ ngon hơn và miệng hết khô. Hoả không hạ xuống nên ở dưới lạnh; Thuỷ không thăng lên nên ở trên nóng, v́ thế h́nh thành t́nh trạng thượng nhiệt hạ hàn (trên nóng dưới lạnh). Đây là nguyên nhân thứ nhất. Nguyên nhân thứ hai. V́ người này căn bản thận dương không đầy đủ, lại bị chứng tâm hạ bĩ, cũng có khả năng xuất hiện thượng nhiệt hạ hàn, v́ bên trên tâm hạ bĩ, bên dưới thận dương suy yếu, “Dương hư sinh ngoại hàn” điều này không có ǵ đáng ngạc nhiên.
Phương Phụ tử tả tâm thang, mọi người cùng xem. “Nhất mai phụ tử tả tâm thang, nhất lạng Liên Cầm nhị Đại hoàng”, là Hoàng liên, Hoàng cầm, Đại hoàng, gia thêm một củ Phụ tử.
Phương thang này khác với thang Đại hoàng Hoàng liên tả tâm, thang này dùng nước để ngâm ba vị (Đại hoàng, Hoàng liên và Hoàng cầm ) mà “chuyên tiễn Phụ tử” chỉ sắc vị Phụ tử, sau đó hoà hai loại nước thuốc vào để uống. “Chuyên tiễn khinh tí yếu tham tường” (专煎轻渍要参详) chính là sắc vị phụ tử, ba vị thuốc (Đại hoàng, Hoàng liên, Hoàng cầm) ngâm sơ trong nước, như một dạng bào chế. V́ sao phải làm như vậy? “Tứ tam hoàng, nhi chuyên tiễn phụ tử”, v́ trên thân thể của người dương hư th́ chính khí đă bị hư tổn, v́ thế việc điều trị nên phù dương là chủ yếu, tiết nhiệt là thứ yếu, đây là phép điều trị song song cả hàn lẫn nhiệt một cách thoả đáng nhất.
156 本以下之,故心下痞,与泻心汤;痞不解,其人渴而口燥烦,小便不利者,五苓散主之。C164
156 Bản dĩ hạ chi, cố tâm hạ bĩ, dữ tả tâm thang; Bĩ bất giải, kỳ nhân khát nhi khẩu táo phiền, tiểu tiện bất lợi giả, Ngũ linh tán chủ chi C164
Đoạn văn này thảo luận về hội chứng và điều trị chứng thuỷ bĩ, Chứng bĩ phân thành thuỷ bĩ và hoả bĩ. Đây là hỗ tương đối chiếu. “Bản dĩ hạ chi, cố tâm hạ bĩ” Nguyên nhân của chứng bĩ, chính là sau khi dùng phép tả hạ mà thành chứng bế tắc ở tâm hạ (dưới tim). Sau khi tả hạ, tỳ vị bị tổn hại, nên khí của tỳ vị thăng giáng không thuận lợi, v́ thế xuất hiện bĩ tắc ở tâm hạ, tâm hạ bế tắc phiền muộn. “Dữ tả tâm thang” (与泻心汤), nghĩa là nên dùng thang tả tâm.
Thang tả tâm nào? Không thấy nói, nhưng cũng không ngoài Sinh khương tả tâm và Bán hạ tả tâm. “Bĩ bất giải” (痞不解), không giải trừ được bế tắc ở dưới tim, “kỳ nhân khát nhi khẩu táo phiền” (其人渴而口燥烦), người này khát nước và miệng khô. “Khẩu táo phiền” là miệng khô tệ hại, v́ thế có thêm chữ “phiền”. Có người cho rằng “kỳ nhân phiền khát nhi khẩu táo”, để chữ “phiền”đứng trước chữ “khát”, cho rằng người này rất khát. Trong miệng lại rất khô, ở đây có hai vấn đề một là tân dịch không đủ và hai là tân dịch bị ngưng tụ bất hoá. “Tiểu tiện bất lợi giả”, là tiểu tiện không thuận lợi. Chứng khát này không phải do tân dịch khô táo, mà chính là chứng khát do nước ( thuỷ )tích lại tân dịch không hoá gây ra. Nước tích ở dưới, tân dịch không hoá, v́ thế người này rất khát mà tiểu tiện không thuận lợi. Nước tích ở dưới, mà khí nghịch lên trên, v́ thế xuất hiện tâm hạ bĩ tắc. Loại bĩ tắc này gọi là thuỷ bĩ, khác với chứng bĩ do hoả nhiệt. Khác biệt ở chỗ nào? Chứng bĩ do hoả nhiệt có biểu hiện bực bội, có nhiệt có hoả, ở đây là tiểu tiện bất lợi. Thuỷ tà tích tụ ở dưới, mà khí lại nghịch lên trên, v́ thế xuất hiện tâm hạ bế tắc. Loại bế tắc gọi là thuỷ bĩ. Khác biệt với chứng bĩ do hoả nhiệt. Khác biệt ở điểm nào? Chứng bế tắc do hoả nhiệt có tâm phiền muộn, có nhiệt, có hoả, ở đây là tiểu tiện không thuận lợi, nổi bật chứng trạng khát nước, nổi bật chứng trạng tân dịch không lưu hành phân bố. Thuỷ bĩ và hoả bĩ là những cách nói tương đối.
Vậy nên làm thế nào? Uống Tả tâm thang không giải quyết được hết vấn đề, cần phải lợi tiểu, “Ngũ linh tán chủ chi” Ngũ linh tán chủ trị bệnh này, cho nên đoạn văn này bổ sung một phương diện trị liệu là Ngũ linh tán. Trước đây khi học về Ngũ linh tán, chỉ nói về các tác dụng như biểu bất giải, thuỷ tích ở bàng quang, tiểu tiện bất lợi, sốt nhẹ, tiêu khát uống nước nhiều, không đề cập đến tâm hạ bĩ. Nếu quả như tiểu tiện bất lợi, mà bế tắc dưới tim, rêu lưỡi ướt và trơn nhờn, đầu lưỡi hơi lớn hơn b́nh thường, đó là biểu hiện của chứng thuỷ bĩ, nên dùng Ngũ linh tán để lợi tiểu tiện.
157 伤寒汗出,解之后,胃中不和,心下痞硬,干噫,食臭,胁下有水气,腹中雷鸣下利者,生姜泻心汤主之。C165
157 Thương hàn hăn xuất, giải chi hậu, vị trung bất hoà, tâm hạ bĩ ngạnh, can y, thực xú, hiếp hạ hữu thuỷ khí, phúc trung lôi minh hạ lợi giả, Sinh khương tả tâm thang chủ chi. C165
Phương thang Sinh khương tả tâm
Thương hàn hăn xuất giải chi hậu
Vị trung bất hoà tâm hạ bĩ
Can y thực xú hiếp hạ thuỷ
Phúc trung lôi minh nhi hạ lợi
Sinh khương tả tâm tứ lượng khương
Tam lượng Cầm Thảo Nhân sâm y
Nhất lượng Can khương thập nhị táo
Nhất Liên Bán hạ bán thăng tẩy
Sinh khương 4 lạng, thái mỏng Cam thảo 3 lạng, nướng Nhân sâm 3 lạng Can khương 1 lạng Hoàng cầm 3 lạng Bán hạ nửa thăng, rửa Hoàng liên 1 lạng, Đại táo 12 quả, bổ táo ra
8 vị thuốc trên, dùng 1 đấu nước, nấu c̣n 6 thăng, bỏ bă, tiếp tục nấu c̣n 3 thăng, uống khi thuốc c̣n ấm 1 thăng, ngày uống ba lần.
Đoạn văn này tiếp nối đoạn văn trên để thảo luận hội chứng và trị liệu của chứng thuỷ khí bĩ. Bệnh này cũng kế phát sau khi bị sốt thương hàn, biểu tà thương hàn đă giải. “Thương hàn hăn xuất giải chi hậu”, là biểu tà đă được giải trừ, bệnh này đúng ra đă khỏi, nhưng v́ khí bên trong chưa hoà, tỳ vị không tốt, v́ thế “vị trung bất hoà” (胃中不和), “vị”ở đây bao gồm cả tỳ và vị. Tỳ vị bất hoà, khí cơ thăng giáng không thuận lợi, v́ thế tạo thành chứng tâm hạ bĩ ngạnh. “Can y thực xú” (干噫食臭), ở đây “Y” cũng là “ái”(ợ) có ư như ợ hơi, “can y” có nghĩa là ợ hơi khan, “Can y”là ợ khan, kèm theo mùi hôi của thực phẩm.
“Hiếp hạ hữu thuỷ khí, phúc trung lôi minh hạ lợi giả” (胁下有水气,腹中雷鸣下利者)có nước ở dưới sườn, sôi bụng tiết tả, đây là biểu hiện của nước không tiêu hoá.
V́ tỳ vị trướng lên, “trung ương thổ dĩ quán tứ bàng” (中央土以灌四旁), là vị trí ở trung ương kư vượng 4 mùa, tỳ thổ vận hoá thuỷ thấp, nếu như tỳ đă không thể vận hoá thuỷ, hạ sườn bên sẽ có thuỷ tà (nước), khí thuỷ ẩm đ́nh trệ lạị, v́ vậy mà bụng kêu như sấm (sôi bụng). “Lôi minh” là từ h́nh dung, là một từ có tính khoa trương, không phải bụng kêu như sấm, mà chỉ là bụng có âm thanh to, chẳng những người sôi bụng cảm thấy mà người đối diện cũng có thể nghe thấy, Đây là tiếng sôi bụng, là âm thanh của tiêu hoá không tốt, khí của tỳ vị không tốt. “Hạ lợi giả”, Người này c̣n có chứng đi tả. Xét theo toàn bộ trạng thái, đây chính là hội chứng của tiêu hoá không tốt, ở bên trên là vị khí nghịch, ợ mùi hôi thực phẩm, ở dưới th́ bụng cồn cào, phân th́ lỏng, ở giữa c̣n có chút bĩ ngạnh (bế tắc và cứng), hai bên c̣n có thuỷ khí. V́ sao biết có thuỷ khí? V́ có lúc đau bên trong cạnh sườn.
Chứng trạng của thang Sinh khương tả tâm có cảm giác đau nhẹ ở sườn, khác với Bán hạ tả tâm thang. Bệnh này là khí của tỳ vị hư tổn mà tâm hạ bĩ do thuỷ thấp, dùng thang Sinh khương tả tâm để trị bệnh này. Căn cứ theo quan sát lâm sàng, chứng trạng của thang Sinh khương tả tâm là có kèm theo thuỷ ẩm, v́ thế điều này đặt tiếp theo điều Ngũ linh tán, chính là nói đến những điểm tương tự của nó với chứng trạng của Ngũ linh tán, nhưng chứng trạng của nó nhẹ hơn so với chứng trạng của Ngũ linh tán.
Trên lâm sàng, có người phù thũng ở chi dưới, phù thũng ở mu bàn chân, hoặc giả c̣n tiểu tiện khó khăn. Nhưng chính là có những đặc điểm không tốt so với chứng trạng của thang Ngũ linh tán, như ợ khan, mùi hôi của thực phẩm, sôi bụng. Ngô Khiêm. Tiền Đẩu Bảo trong Y tông Kim Giám đều cho rằng thang Sinh khương tả tâm nên gia thêm vị Phục linh.
Trên lâm sàng, chứng trạng của thang sinh khương tả tâm là: Bên trên th́ ợ, nấc, có mùi hôi thực phẩm, bên dưới th́ đi tả, sôi bụng cồn cào, cạnh sườn th́ đau, chi dưới phù nhẹ, tiểu tiện hơi khó khăn, dùng thang Sinh khương tả tâm nên gia thêm khoảng 4 chỉ Phục linh, hiện tại là khoảng từ 12g đến 15g, hiệu quả rất tốt. Thang Sinh khương tả tâm là thang Bán hạ tả tâm gia Sinh khương, v́ thế thang này dùng hai loại gừng, gừng tươi và gừng khô. Lượng Can khương nên dùng ít, dùng khoảng 1 tiền (4g) đến 1,5 tiền (6g). Lượng gừng tươi nên dùng nhiều, có thể dùng khoảng 4,5 tiền (15g~20g), thái mỏng, v́ sao? V́ nguyên nhân bệnh này là tỳ vị đều hư tổn, thăng giáng không thuận lợi, tâm hạ bĩ tắc, v́ thế nên kiện vị (làm cho dạ dày mạnh lên) tán thuỷ. Gừng tươi là thuốc giúp dạ dày mạnh mẽ, vị cay giúp dạ dày tiêu hoá tốt, đây chính là gia vị không thể thiếu trong ẩm thực và là vị thuốc quan trọng để tăng cường sức mạnh của dạ dày. Gừng có tác dụng giúp dạ dày mạnh mẽ, đồng thời có tác dụng tán thuỷ, trừ khứ nước không tốt trong dạ dày. Thang Phục linh Cam thảo chính là thang Quế chi truật Cam khứ Bạch truật gia Sinh khương có nhiều khả năng giúp dạ dày mạnh mẽ, lại có thể trừ khứ thuỷ ẩm.. Thang sinh khương tả tâm có tác dụng: Tân khai khổ giáng Cam điều (Cay th́ mở, đắng th́ hạ giáng, ngọt th́ điều hoà), nhưng tác dụng tân khai là lớn mạnh, cần dùng đến 5 tiền (20g), 4 tiền (15g) gừng tươi, c̣n gia thêm gừng khô. V́ chứng tâm hạ bĩ ở đây là bĩ ngạnh (bế tắc và cứng), cũng là chứng bế tắc nặng, không phải là chứng bế tắc thông thường, v́ thế, vị cay để tán (tân dĩ tán chi), vị đắng để hạ xuống (khổ dĩ giáng chi), vị ngọt để điều hoà (cam dĩ hoà chi) (辛以散之,苦以降之,甘以和之)v́ thế cần phải tăng lượng vị thuốc có vị cay.
158 伤寒中风,医反下之,其人下利,日数十行,谷不化,腹中雷鸣,心下痞硬而满,干呕,心烦不得安。医见心下痞,谓病不尽,复下之,其痞益甚,此非结热,但以胃中虚,客气上逆,故使硬也,甘草泻心汤主之。C166
158 Thương hàn trúng phong, y phản hạ chi, kỳ nhân hạ lợi, nhật số thập hành, cốc bất hoá, phúc trung lôi minh, tâm hạ bĩ ngạnh nhi măn, can ẩu, tâm phiền bất đắc an. Y kiến tâm hạ bĩ, vị bệnh bất tận, phục hạ chi, kỳ bệnh ích thậm, thử phi kết nhiệt, đăn dĩ vị trung hư, khách khí thượng nghịch, cố sử ngạnh dă, Cam thảo tả tâm thang chủ chi. C166
Phương thang Cam thảo tả tâm
Hạ dư bĩ tác phúc lôi minh
Cam tứ Khương Cầm tam lạng b́nh
Nhất lạng Hoàng liên bán thăng phục
Táo mai thập nhị thần hiệu tŕnh
Cam thảo 4 lạng Hoàng cầm 3 lạng Can khương 3 lạng Bán hạ nửa thăng, rửa Hoàng liên 1 lạng Đại táo 12 quả, bổ ra
6 vị thuốc trên, dùng 1 đấu nước, nấu c̣n 6 thăng, bỏ bă, lại nấu c̣n 3 thăng, uống 1 thăng lúc thuốc ấm, ngày uống ba lần.
Đây là đoạn văn thảo luận về hội chứng và trị liệu của chứng ngộ hạ vị hư (hạ nhầm vị hư tổn), bĩ và tả lợi đều nặng.
Bất luận là thương hàn hay trúng phong, đều cần phát hăn, “Y phản hạ chi” (thày thuốc lại dùng phép hạ) là phương pháp trị liệu sai lầm. Sai lầm như vậy khí của tỳ vị sẽ bị tổn hại, v́ thế “kỳ nhân hạ lợi nhật số thập hành”( 其人下利日数十行), chứng đi tả này rất nghiêm trọng, mỗi ngày vài chục lần, là bệnh chứng nặng. Ở phần trên khi nói về thang Bán hạ tả tâm, Sinh khương tả tâm không nhấn mạnh tính nghiêm trọng của chứng tiêu chảy, ở đây nổi bật “hạ lợi nhật số thập hành” là đi tả nhiều lần trong ngày. Đi tả nhiều lần là biểu hiện khí của tỳ bị hăm xuống, tỳ khí không thăng, nên tỳ khí không thể vận hoá. Có thể tưởng tượng, tạng tỳ càng hư tổn, cho nên, “cốc bất hoá, phúc trung lôi minh, tâm hạ bĩ ngạnh nhi măn” (谷不化,腹中雷鸣,心下痞硬而满) là thực phẩm không tiêu hoá nên sôi bụng, tâm hạ bế tắc trướng đầy và cứng, công năng tiêu hoá của tỳ vị suy kém. Một ngày đi tả nhiều lần, cơ thể không chịu nổi, v́ thế tiêu hoá không tốt xuất hiện tâm hạ bĩ cứng và đầy trướng, khí của tỳ vị thăng giáng không điều hoà, cho nên “bĩ ngạnh nhi măn” (痞硬而满)là bĩ cứng mà đầy. “Ẩu, tâm phiền bất an” (呕,心烦不得安) là ẩu thổ tim phiền muộn bất an, do ẩm thực không tiêu hoá, vị khí bất hoà, trong dạ dày có thực phẩm đ́nh lưu (giữ lại) nên sẽ nôn khan, khó chịu. Đây là hiện tượng của vị khí bất hoà.
“Y kiến tâm hạ bĩ, vị bệnh bất tận, phục hạ chi” (医见心下痞,谓病不尽,复下之) là thày thuốc thấy tuy bệnh nhân tiết tả mà tâm hạ c̣n bĩ ngạnh, ngộ nhận là bệnh chưa hết, nghi ngờ c̣n tà khí ngưng trệ trong dạ dày, nghi ngờ tả hạ một lần chưa hết sạch, chưa triệt để, lại đưa ra một chẩn đoán sai lầm, “phục hạ chi” (复下之), “phục” tương đương với “hựu”(lại), lại dùng phép tả hạ, “kỳ bĩ ích thậm” (其痞益甚) là càng tả hạ, tâm hạ bĩ càng tệ hơn, V́ sao như vậy? “Thử phi giai nhiệt” (此非皆热) V́ loại tâm hạ bĩ này không phải do nhiệt ngưng kết, không phải dương minh vị gia thực.
“Đăn dĩ vị trung hư” (但以胃中虚), “đăn”chính là v́ dạ dày đă hư tổn, “khách khí thượng nghịch”, “khách khí” không phải là “chính khí”, chính khí c̣n gọi là chủ khí, khách khí chính là một số thực phẩm tiêu hoá không tốt, những thực phẩm này khiến vị khí bất hoà, nên “cố sử ngạnh dă” (故使硬也) là làm cho tâm hạ trở nên cứng, là những t́nh huống thực tế mà Trương Trọng Cảnh đă quan sát trên lâm sàng. V́ tâm hạ bế tắc, chứng tâm hạ bế tắc ấn vào thấy mềm mại, là vấn đề của khí tỳ vị hư nhược. Trường hợp này là thày thuốc lần thứ nhất dùng phép tả hạ, lần thứ hai lại dùng phép tả hạ, là đă dùng phép trị liệu thực chứng cho hư chứng. Đây chính là những ǵ Trương Trọng Cảnh tận mắt chứng kiến, dựa theo những ǵ đă ghi chép lại, đây không phải là bài viết của một cá nhân, có khả năng đă được ghi lại từ lâm sàng.
Phải làm thế nào? Dùng thang Cam thảo tả tâm. V́ người này bị tiêu chảy, chán ăn, đại tiện càng nhiều, tỳ khí càng hư tổn, vị khí càng nghịch, v́ thế cần dùng Cam thảo. Cam thảo có tác dụng bổ trung ích khí, có nhiều khả năng giải trừ chứng tâm hạ bĩ ngạnh, vị thuốc này thiên nặng về bổ hư cho trung tiêu. V́ thế trong phương dùng 4 lạng Cam thảo, dùng Cam thảo làm chủ dược, lượng Cam thảo cần phải nhiều. Có mục đích ǵ? Mục đích nhằm vào “Đại tiện hạ lợi, nhật số thập hành, cốc bất hoá” là nhằm vào các chứng trạng tiêu chảy, mỗi ngày 10 lần, thực phẩm không tiêu hoá. Phương này không có Nhân sâm, có những y gia sau này, thậm chí một số y thư đều có vị Nhân sâm. V́ phương chứng này do “hạ lỵ nhật số thập hành, cốc bất hoá” là chứng của phương này là do tiêu chảy ngày 10 lần, thực phẩm không tiêu hoá, mà lại “phục hạ chi, kỳ bĩ ích thậm” ( lại dùng phép hạ làm cho chứng bĩ càng nặng) mà thành, v́ thế nên gia vị Nhân sâm.
Thang Cam thảo tả tâm khi ứng dụng trên lâm sàng nên nắm vững vấn đề ǵ? Là tâm hạ bĩ mà lại tiêu chảy nghiêm trọng. Đó là một điểm, một điểm khác là “tâm phiền bất đắc an”, là khó chịu bất an, nổi bật là chứng khó chịu. “Tâm hạ bĩ ngạnh nhi măn” là tâm hạ bế tắc và đầy cứng, chứng bĩ và tiêu chảy tỉ lệ thuận với nhau. Chính là bên dưới tiêu chảy càng nhiều, th́ “tâm hạ bĩ ngạnh nhi măn” càng nặng, c̣n có “tâm phiền bất đắc an” là buồn bực không an, nắm được các chứng này th́ đă có thể dùng thang Cam thảo tả tâm. Thang Cam thảo tả tâm trị chứng tỳ khí hư mà khách khí thượng nghịch, v́ thế người xưa gọi nó là “khách khí thượng nghịch bĩ” là chứng bế tắc do khách khí thượng nghịch. V́ sao gọi là khách khí? V́ là khí của thuỷ cốc tiêu hoá không tốt trong dạ dày nghịch lên. V́ thế niêm mạc trong miệng bị lở loét, có lúc niêm mạc tiền âm (bên ngoài của sinh thực khí và đường tiểu) cũng bị lở loét, có lúc giang môn cũng bị lở loét, có mùi b́nh thường, có mùi không tốt. Một số đồng chí trong tây y nói với tôi điều này, bệnh luôn diễn biến xấu, rất dễ trở thành ung thư. Đây là thang Cam thảo tả tâm.
159 伤寒服汤药,下利不止,心下痞硬。服泻心汤已,复以他药下之,利不止,医以理中与之,利益甚。理中者,理中焦,此利在下焦,赤石脂禹余粮汤主之。复利不止者,当利其小便。C167
159 Thương hàn phục thang dược, hạ lợi bất chỉ, tâm hạ bĩ ngạnh. Phục tả tâm thang dĩ, phục dĩ tha dược hạ chi, lợi bất chỉ, y dĩ lư trung dữ chi, lợi ích thậm. Lư trung giả, lư trung tiêu, thử lợi tại hạ tiêu, Xích thạch chi Vũ dư lương chủ chi. Phục lợi bất chỉ giả, đương lợi kỳ tiểu tiện. C167
Phương thang Xích thạch chi Vũ dư lương
Xích thạch Dư lương các nhất cân
Hạ tiêu hạ lợi thử thang hân
Lư trung bất ứng nghi thử pháp
Lô để điền lai đắc sở văn
Xích thạch chi một cân, nghiền nát Vũ dư lương một cân, nghiền nát
Hai vị thuốc trên, dùng 6 thăng nước, nấu c̣n 2 thăng, bỏ bă, chia ra uống 3 lần.
Đoạn văn này thảo luận hội chứng và trị liệu chứng tiêu chảy đồng thời thảo luận về bốn phương pháp điều trị chứng tiêu chảy.
Tiêu chảy lần thứ nhất là do uống thang dược, là “Thương hàn phục thang dược, hạ lợi bất chỉ” (伤寒服汤药,下利不止), v́ tiêu chảy không ngừng nên khí của tỳ vị bị tổn thương, v́ thế “tâm hạ bĩ ngạnh”, “phục tả tâm thang dĩ”, là nên cho bệnh nhân uống thang tả tâm, căn cứ theo t́nh huống cụ thể, hoặc là thang Cam thảo tả tâm, hoặc là thang Sinh khương tả tâm, hoặc là thang Bán hạ tả tâm, “dĩ”(là ngừng) là bệnh đă biến chuyển tốt.
“Phục dĩ tha dược hạ chi”, thày thuốc thấy tâm hạ bĩ, không hiểu đây là vấn đề khí của tỳ vị bất hoà, nhầm lẫn cho rằng bên trong có ǵ đó, là một bệnh biến có tính thực, “phục dĩ tha dược hạ chi” là dùng thuốc tả hạ lần thứ hai, “tha dược” là thuốc khác không phải thuốc thang như lần thứ nhất. Lần trước là thang dược, lần này là “tha dược”, có thể là thuốc hoàn, như thuốc chế từ vị Ba đậu, Cam toại là những thành dược có tác dụng tả hạ rất mănh liệt, đây là ư của lần tả hạ thứ hai.
Lần tả hạ thứ hai mạnh hơn so với lần thứ nhất. V́ sao lại mạnh hơn? V́ thuốc khác là không phải thuốc thang mà là một loại thành dược (thuốc hoàn). Thời nhà Hán có hai loại thành dược tả hạ, một là thuốc hoàn chế từ Ba đậu, hai là chế từ vị Cam toại. Hai loại thuốc tả hạ này rất mănh liệt, kết quả là “lợi bất chỉ” (利不止) là tiêu chảy không ngừng. V́ thế nên chú ư vấn đề này, chứng“tâm hạ bĩ ngạnh” này các thày thuốc thời hậu Hán thường phạm sai lầm, cho rằng có ngưng kết trong dạ dày, là thực chứng trong dạ dày mà dùng tả pháp để điều trị. Đề xuất vấn đề này để chúng ta chú ư, và không nên để xảy ra sai sót này trên lâm sàng.
“Y gỉa Lư trung dữ chi” là thày thuốc không nhận định đúng vấn đề, dùng nhầm phép tả hạ khiến bệnh nhân tiêu chảy không ngừng, chứng bĩ ngạnh đương nhiên cũng không biến chuyển tốt, v́ thế “dĩ Lư trung dữ chi” là cho bệnh nhân uống thang Lư trung. “Lợi ích thậm”( 利益甚) là sau khi uống thang Lư trung, bệnh nhân càng tiêu chảy tệ hơn, chứng tiêu chảy ngày càng nặng. Lư do v́ sao? V́ thang Lư trung có tác dụng bổ tỳ vị trừ hư hàn. “Lư trung giả, lư trung tiêu” (理中者,理中焦) là thang Lư trung có tác dụng điều trị bệnh ở trung tiêu, nếu trung tiêu hư hàn, uống thang Lư trung sẽ có tác dụng tốt, hiện tại bệnh nhân uống vào tại sao không tốt? V́ “thử lợi tại hạ tiêu” (此利在下焦)v́ chứng tiêu chảy là ở hạ tiêu. Hạ tiêu tiết tả là do ruột hoạt thoát (không vững chắc), v́ dùng phép tả hạ 2 lần, đại tràng không thể thu súc (co lại), hạ tiêu không ước thích (ràng buộc), đây gọi là “hạ tiêu hạ lợi” là hạ tiêu tiêu chảy, đại tràng không kiên cố, cần bồi bổ hạ tiêu, thu sáp cố thoát (giữ lại không cho thoát ra). “Xích thạch chi Vũ dư lương thang chủ chi” Thang Xích thạch chi Vũ dư lương trị bệnh này, tác dụng thu sáp của thuốc, “kỳ phương thạch tễ, sáp dĩ cố thoát”, là thang dược có tác dụng thu liễm không cho thoát ra. Xích thạch chi, Vũ dư lương là hai vị thuốc thu sáp có tác dụng trị chứng tiêu chảy, cũng có tác dụng bổ sung cho hạ tiêu, cố sáp đại tràng, trị chứng tiêu chảy ở hạ tiêu.
Dùng Xích thạch chi và Vũ dư lương để cố sáp đại tràng, khiến cho hạ tiêu thu liễm, đây là cách đơn giản để điều trị chứng tiêu chảy. Phần sau chúng ta sẽ thảo luận về thiên Thiếu âm, có thang Đào hoa, sẽ đề cập nhiều hơn về vấn đề này, v́ thế trị chứng tiêu chảy có một loại phương pháp cố tràng chỉ lợi sáp đại tiện (là dùng thuốc cố sáp, có tác dụng khiến đại tràng khẩn cố (vững vàng chặt chẽ) để chứng tiêu chảy ngưng lại). “Phục lợi bất chỉ”, là sau khi bệnh nhân uống thang Xích thạch chi Vũ dư lương “phục lợi bất chỉ”là tiêu chảy vẫn không ngừng lại. Nếu như lúc này “tiểu tiện bất lợi giả” là nếu tiểu tiện c̣n bất lợi, là biểu hiện của thuỷ thấp thấm vào đại tràng, không phân trong đục, lúc này nên lợi tiểu tiện, để thực đại tiện (phân sẽ rắn lại). “Lợi tiểu tiện tức sở dĩ thực đại tiện” (利小便即所以实大便) là khi tiểu tiện thông lợi. thuỷ thấp theo đường tiểu, phân sẽ khô và thành khuôn. Đây chính là phương pháp lợi tiểu tiện, phân trong đục để trị chứng tiêu chảy.
Xét từ những phần trên, Trọng Cảnh cho chúng ta biết điều trị chứng tiêu chảy gồm có bốn phương diện : Tiêu chảy do bĩ dùng thang Cam thảo tả tâm; Tiêu chảy do lạnh dùng thang Lư trung; Tiêu chảy do hạ tiêu hoạt thoát dùng Xích thạch chi vũ dư lương; Tiêu chảy do tiểu tiện bất lợi, nước vào đại tràng, “đương lợi kỳ tiểu tiện” là nên dùng phép lợi tiểu với Ngũ linh tán. Đây là bốn phương pháp dùng để điều trị chứng tiêu chảy. Và đều là những bệnh của dạ dày và ruột. Bĩ là bệnh của dạ dày, vị khí bất hoà; Tiêu chảy cũng là bệnh của tỳ vị, v́ thế mà có câu “bĩ khí lợi”(痞气利)tiết tả do khí bĩ.
Dùng phương thuốc thứ nhất không hiệu quả, đổi sang phương thứ hai cũng không hiệu quả, đổi sang phương thang thứ ba…Diễn biến này không phải do khả năng của Trọng Cảnh c̣n hạn chế, mà đây chính là phương cách để ông giúp chúng ta nắm vững bốn phương pháp điều trị chứng tiêu chảy.
Thang Xích thạch chi Vũ dư lương gồm hai vị thuốc, Sách Bản thảo viết: “Sáp khả khứ thoát, Thạch chi sáp dĩ thu liễm chi, trọng khả khứ khiếp, dư lương chi trọng dĩ trấn cố” (涩可去脱,石脂涩以收敛之,重可去怯,余粮之重以镇固) là sáp rít có thể trừ thoát, vị Thạch chi sáp rít để thu liễm, vị nặng có thể trừ khiếp sợ, dư lương là vị nặng có tác dụng đè nén củng cố, Lượng sử dụng tương đối nhiều, “Xích thạnh dư lương các nhất cân, hạ tiêu hạ lợi thử thang hân, Lư trung bất ứng nghi tư pháp, lô để điền lai đắc sở văn ”(hai vị đều 1 cân). V́ sao cần nhiều thuốc? Các bạn nghĩ xem, dùng lượng thuốc nhỏ là không hiệu quả. Trên lâm sàng cho rằng nếu chỉ uống thuốc thang th́ hiệu quả không tốt, nếu nghiền xích thạch chi thành bột, càng mịn càng tốt, rồi hoà vào thang dược cho bệnh nhân uống, th́ hiệu quả cố tràng chỉ tả tốt hơn rất nhiều. Tác giả Dụ Gia Ngôn của {Ngụ ư thảo} rất hiểu ư tứ này của Trương Trọng Cảnh, ông có một bệnh nhân, người này bị chứng hạ tiêu tiết tả, đại tràng rất suy yếu, ông dùng Xích thạch chi và Vũ dư lương nghiền thành bột mịn, khi dùng bữa th́ rắc bột thuốc lên trên, trộn đều rồi cho bệnh nhân ăn, tuỳ theo bệnh nhân ăn được nhiều hay ít, bằng cách này hạ tiêu sẽ được cải thiện. Với những trường hợp hạ tiêu quá suy yếu không thể kiểm soát, không thể khống chế, phân đi xuống hậu môn không có lực giữ lại, th́ nên dùng phương pháp này.
160 伤寒吐下后发汗,虚烦,脉甚微。八九日,心下痞硬,胁下痛,气上冲咽喉,眩冒。经脉动惕者,久而成痿。C168
160 Thương hàn thổ hạ hậu phát hăn, hư phiền, mạch thậm vi. Bát cửu nhật, tâm hạ bĩ ngạnh, hiếp hạ thống, khí thượng xung yết hầu, huyễn mạo. Kinh mạch động dịch giả, cửu nhi thành nuy. C168
Đoạn văn này thảo luận do điều trị lầm dẫn đến dương khí thụ thương, làm cho thuỷ khí thượng xung (vọt lên), và dương hư không hoá thành tân dịch, v́ thế cân mạch không được nuôi dưỡng tạo thành nuy chứng (chứng tê liệt).
“Thương hàn thổ hạ hậu” chữ “hậu”đổi thành chữ “phục”, “phục phát hăn”.
“Thương hàn thổ hạ”, là đă trải qua tổ, hạ, “phục phát hăn” lại phát hăn cho bệnh nhân, là người bệnh này đă trải qua hăn, thổ và hạ (xuất mồ hôi, ẩu thổ và tiêu chảy), đă tổn thương chính khí, chính khí đă hư tổn, dương khí lại suy, v́ thế “mạch vi thậm” là mạch đập rất nhỏ yếu, không có lực. Bệnh nhân c̣n phát phiền (bực bội), hư phiền, là không có ǵ mà bực bội chính là hư phiền, bực bội (phát phiền) do chính khí hư, dương khí nhỏ yếu, thường thuộc “dương hư nhi âm thừa chi” (阳虚而阴乘之), dương khí đă suy yếu, âm khí lấn át, v́ thế mà phát phiền. Qua 8,9 ngày sau, tâm hạ bĩ ngạnh, đau ở dưới cạnh sườn, v́ sau khi dùng các phép hăn, hạ và thổ làm cho dương khí bị tổn thương, dương khí đă hư tổn không thể khống chế âm, dương khí cũng không thể khống chế thuỷ, v́ thế bệnh tà thuỷ ẩm sẽ nghịch lên, “tâm hạ bĩ ngạnh” (心下痞硬)là bệnh tà thuỷ ẩm, “hiếp hạ thống” (胁下痛) là đau dưới cạnh sườn, cũng chính là khí của thuỷ ẩm không hoá.
“Khí thượng xung yết hầu, huyễn mạo” (气上冲咽喉,眩冒), thuỷ khí xung lên trên, thuỷ khí là hàn khí, v́ thuỷ ẩm là tà hữu h́nh, nên khí của nước lạnh có thể trào ngược lên cổ họng và bệnh nhân cảm thấy không khí trào ngược lên cổ họng. “Huyễn mạo”, là chóng mặt, choáng váng, là khí của nước che lấp thanh dương, v́ thế “huyễn mạo” là thuỷ khí nghịch lên gây ra. Dương hư mà có nước, dương khí của toàn thân đă hư yếu, lại có thuỷ tà, cho nên “kinh mạch động dịch giả ” (经脉动惕者) là Kinh mạch toàn thân kinh động, máy động. Bệnh này là dương hư hữu thuỷ, thuỷ không khứ th́ không sinh tân dịch, từ đó cân mạch, cân cốt không được nuôi dưỡng, v́ thế “cửu nhi thành nuy” (久而成痿)là lâu ngày thành chứng tê liệt, tê liệt là không sử dụng được, tay chân không sử dụng được như ư muốn.
Đoạn văn này chính là nói về sau khi dùng các phép hăn, thổ và hạ, dương khí thụ thương, thuỷ tà tràn lan, bắt đầu từ tâm hạ, tâm hạ bế tắc, tựa như tâm hạ bĩ, tâm hạ nghịch măn của Linh quế truật cam thang chứng, sau đó là khí thượng xung lên ngực, thượng xung yết hầu mà bị choáng, choáng do thuỷ tà che lấp thanh dương, c̣n có khả năng xuất hiện hư phiền, ở bên ngoài th́ đầu cà các khớp xương trên thân thể không được dương khí nuôi dưỡng tưới nhuần, c̣n v́ thuỷ tà làm cho tân dịch không hoá sinh, cân mạch từ đó không được tư nhuận trở nên khô khan, “cửu nhi thành nuy”(久而成痿)lâu ngày thành chứng tê liệt). Đây chính là vấn đề sau khi hăn thổ hạ chính khí hư suy mà thuỷ tà tràn lan, điều trị bệnh này có thể tham khảo phối hợp thang Linh quế truật cam và thang Chân vơ. V́ có chứng trạng thượng xung nên cần gia vị Quế chi, kinh mạch bị kinh động nên cần dùng thang Chân vơ.
161 伤寒发汗,若吐若下,解后,心下痞硬,噫气不除者,旋覆代赭石汤主之。C169
161 Thương hàn phát hăn, nhược thổ nhược hạ, giải hậu, tâm hạ bĩ ngạnh, ái khí bất trừ, Toàn phúc đại giả thạch thang chủ chi. C169
Phương thang Đại giả thạch
Tâm hạ bĩ ngạnh ư bất trừ
Nhất hách nhị sâm tam thảo phục
Thạp nhị mai táo ngũ lạng khương
Bán hạ bán thăng nhật tam phục
Toàn phú hoa 3 lạng Nhân sâm 2 lạng Sinh khương 5 lạng, thái mỏng Đại giả thạch 1 lạng Đại táo 12 quả, bổ Cam thảo 3 lạng cứu Bán hạ nửa cân, rửa
Bảy vị trên, dùng 1 đấu nước, nấu c̣n 6 thăng, bỏ bă, tiếp tục nấu c̣n 3 thăng, mỗi lần uống 1 thăng thuốc ấm, ngày 3 lần.
Đoạn văn này giảng về v́ nguyên nhân can khí bất hoà, tỳ vị hư nhược, đàm khí nghịch lên gây ra chứng tâm hạ bĩ ngạnh.
Phát hăn, hoặc sau khi dùng phép thổ, hoặc sau khi dùng phép tả hạ, gây tổn thương khí của tỳ vị, khí tỳ vị bị tổn hại, sẽ sinh đàm ẩm. Lúc này can khí lấn át xâm phạm vị, v́ thế can khí cộng thêm đàm ẩm sẽ khiến vị khí bất hoà, xuất hiện tâm hạ bĩ ngạnh (bế tắc ở tâm hạ) ợ hơi bất trừ. “Ư khí” là ợ hơi. Tại sao gọi là “bất trừ” (不除)? Có 3 ư: Một là v́ tâm hạ bĩ, bệnh nhân ợ hơi, thày thuốc thấy rất giống chứng trạng của thang Sinh khương tả tâm, liền cho uống sinh khương tả tâm, sau khi uống thang Sinh khương tả tâm “bất trừ” là không thấy bệnh thuyên giảm, trừ là giảm, do đó ư thứ nhất là đă uống thang Sinh khương tả tâm. Ư thứ hai là trong t́nh huống thông thường ợ hơi có tác dụng hoăn giải bĩ ngạnh ở tâm hạ. Tuy nhiên ở đây dù ợ hơi rất nhiều nhưng chững tâm hạ bĩ ngạnh vần không được giải trừ, đây là ư thứ hai. Ư thứ ba là “Ư khí bất trừ” (噫气不除) chính là ợ hơi liên tục, liên tục mà không giảm, có ư nói đây là chứng ợ hơi nghiêm trọng. Cần phải t́m hiểu cả ba ư trên để có thể nhận thức, t́m hiểu và lư giải sâu sắc câu “Ư khí bất trừ” (噫气不除).
V́ vị (dạ dày) hư nhược, đàm ẩm hợp với can khí xâm phạm vị, khiến khí của tỳ vị bất hoà, sẽ xuất hiện chứng tâm hạ bĩ ngạnh, vị khí cộng thêm can khí và đàm khí nghịch lên trên, v́ thế nên “Ư khí bất trừ”. Phải làm thế nào? Đây là vấn đề của tạng Can. Nội khoa cho rằng tỳ hư can thừa (tỳ hư th́ can xâm lấn), thổ hư mộc xâm lấn, không chỉ là vấn đề của đàm khí, thang Sinh khương tả tâm, thang Bán hạ tả tâm không điều trị bệnh của tạng can, nên không giải quyết được vấn đề này.
Đồng thời chứng trạng ợ hơi này rất nghiêm trọng, tệ hơn nhiều so với chứng ợ hơi của thang Sinh khương tả tâm, cũng nghiêm trọng hơn so với chứng ợ hơi của thang Cam thảo tả tâm, không phải là chứng nôn khan, mà là chứng ợ hơi, cho nên dùng “Toàn phú đại giả thạch thang chủ chi”là dùng thang Toàn phú đại giả thạch để trị bệnh này.
Phương thang này một mặt điều hoà tỳ vị, một mặt tiêu trừ đàm ẩm, một mặt chấn can giáng nghịch, chấn can lư khí giáng nghịch, từ đó các chứng tâm hạ bĩ, ợ hơi sẽ được giải quyết.
Thành phần của phương thang gồm Toàn phú hoa, Nhân sâm, Sinh khương, Bán hạ, Đại giả thạch, Đại táo và chích Cam thảo, với Toàn phú hoa là chủ dược, cho nên có tên là Thang Toàn phú hoa đại giả thạch. Toàn phú hoa có hai tác dụng, một là tiêu trừ khí ngưng kết, trị chứng bĩ ở tâm hạ (dưới tim), tại sao Toàn phú hoa có thể tiêu trừ khí kết để trị chứng bế tắc ở dưới tim? V́ nó có thể giúp tạng can sơ tiết (điều tiết tạng can) lại có khả năng lợi phế. Theo {Thần nông bản thảo}Toàn phú hoa có vị mặn nhẹ. Nói theo vị thuốc loại thực vật của Trung y, hoa là vị thuốc có tác dụng ở phần đầu, ở phần trên của cơ thể, nhưng Toàn phú hoa tuy là hoa nhưng lại có vị mặn nhẹ, v́ thế có khả năng lợi khí, lại có khả năng hạ khí, nên có thể lợi can khí, cũng có thể lợi phế khí, Khí của can phế đều thuận lợi, khí bĩ kết có thể tiêu tán, chứng ợ hơi cũng được điều trị tốt. Trong {Kim Quỹ Yếu Lược} cũng có thang Toàn phú hoa điều trị bệnh tạng can. Đại giả thạch là loại thuốc khoáng, có tác dụng trấn giáng, có thể trấn can giáng nghịch, c̣n có tác dụng hoạt huyết nhẹ, v́ khí của tạng Can rất mạnh, nên dùng thêm vị thuốc là khoáng vật, thêm vị thuốc Đại giả thạch để trấn áp khí của tạng can, trấn là trấn áp, khiến cho can khí bị trấn áp không nghịch lên trên.
Kết hợp hai vị thuốc này, một vị điều tiết thuận lợi và một vị trấn áp, như thế can khí sẽ không thượng nghịch, cho nên cả hai vị thuốc này đều là chủ dược.
Tại sao dùng Bán hạ, Sinh khương? V́ vị khí bất hoà, có đàm ẩm, Bán hạ, Sinh khương hỗ trợ giúp dạ dày mạnh mẽ, tân khai tán kết (vị cay có tác dụng khai mở giải tán kết tụ, tiêu hoá đàm thuỷ, có thể trị chứng tâm hạ bĩ ngạnh (bế tắc và cứng ở dưới tim). Nhân sâm, Cam thảo, Đại táo có tác dụng bổ trung khí, bệnh này là chứng thương hàn sau khi dùng phép thổ và phép hạ, khí của tỳ vị đă hư yếu, v́ thế cần gia thêm các vị thuốc có vị ngọt để bổ trung khí. Trị đàm khí là Bán hạ, Sinh khương, trị can khí là Toàn phú hoa, Đại giả thạch, bổ tỳ vị là Nhân sâm, Cam thảo, Đại táo.
Khí sử dụng phương này nên chú ư vấn đề “khứ chỉ tái tiễn” (bỏ bă nấu lại). “Dĩ thuỷ nhất đấu, chử thủ lục thăng, khứ chỉ, tái tiễn, thủ tam thăng, ôn phục nhất thăng, nhật tam phục” (以水一斗,煮取六升,去滓,再煎,取三升,温服一升,日三服)dùng 1 đấu nước, nấu c̣n 6 thăng, bỏ bă, tiếp tục nấu c̣n 3 thăng, mỗi lần uống 1 thăng thuốc ấm, ngày 3 lần. Nguyên nhân “khứ chỉ tái tiễn”(去滓再煎)bỏ bă nấu lại là có ư hoà giải, v́ thế nên uống ngày ba lần. Uống thuốc như vậy có thể khiến can khí không nghịch lên, vị khí có thể hạ xuống. Lượng thuốc của các thành phần trong phương thang này cũng là điểm nên chú ư, một là vị Đai giả thạch, lượng sử dụng của vị Đại giả thạch rất nhỏ, chỉ dùng 1 lạng, một lạng tương đương với 1 tiền (4g) hiện nay, Sinh khương 5 lạng là khoảng 5 tiền (20g), đây là những điều phải ghi nhớ, nghĩa là cần dùng nhiều Sinh khương trong thang Toàn phú hoa Đại giả thạch, vị Đại giả thạch chỉ dùng một lượng nhỏ. Nếu không nhớ rơ tỉ lệ này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của phương thang. “Tâm hạ bĩ ngạnh, ư khí bất trừ giả” (心下痞硬,噫气不除者) Cần dùng 5 lạng Sinh khương, 1 lượng Đại giả thạch, không phải là 1 lạng Đại giả thạch, ba lát sinh khương. Lư do tại sao? V́ đây là chứng tâm hạ bĩ, tiêu điểm của mâu thuẫn ở tâm hạ (dưới tim), tâm hạ bĩ c̣n là khí của tỳ vị bất hoà, v́ thế trong phương thang này dùng nhiều Sinh khương để kiện vị (giúp dạ dày) tiêu bĩ (trị bế tắc), trừ đàm ẩm, Toàn phú hoa sơ tiết can lợi phế khí tán kết, dùng một chút Đại giả thạch để trấn can hạ khí là có thể đạt được hiệu quả tốt.
Bản thân Đại giả thạch là một loại thuốc có tác dụng trấn áp, nếu như một lượng quá lớn, thuốc sẽ xuống thẳng hạ tiêu. Đại giả thạch c̣n có tác dụng tả hạ nhẹ, khi đại tiên phân khô cứng, dùng một lượng nhỏ Đại giả thạch có thể giải đại tiện, v́ thế phụ nữ khi có thai không thể dùng Đại giả thạch. Phục nữ mang thai ố trở (nghén), ẩu thổ, cũng cần phải chú ư, Đại giả thạch là thuốc kỵ thai. Lượng sử dụng của Đại giả thạch không nên quá nhiều, “bệnh tại trung tiêu, trị tại hạ tiêu” (病在中焦,而治在下焦), nếu các vị thuốc đồng loạt xuống hạ tiêu, nên không thu được hiệu quả. Sinh khương trong phương này có vị cay nhẹ, dùng với lượng nhiều, khiến nó phát huy tác dụng trong dạ dày, chỉ cần dùng một lượng nhỏ Đại giả thạch là có thể trấn can giáng nghịch, lượng sử dụng Đại giả thạch không nên quá nhiều.
Thang Toàn phú hoa Đại giả thạch không chỉ dùng trị bệnh này. Theo báo lâm sàng hiện nay với các chứng như nghẹn, buồn nôn, thậm chí có khối u thực quản, ăn uống không được nữa, có những trường hợp cũng có thể dùng Toàn phú hoa Đại giả thạch. Những bệnh như vậy lại là vấn đề khác, có thể trọng dụng Đại giả thạch, dùng 1 lạng là có thể, cần phân tích vấn đề một cách cụ thể. Như ở đây, bệnh “Tâm hạ bĩ ngạnh, ư khí bất trừ giả”, không cần dùng nhiều Đại giả thạch. Hiện tại khi điều trị tạp bệnh, trị chứng can vị khí nghịch, là chứng tâm hạ không bĩ, chỉ có ợ hơi, mà không thấy tâm hạ bĩ ngạnh, th́ phương thang này cũng hữu dụng.

Trường Xuân Ng Nghị
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-12-17 03:54:31
Từ điều 162 đến điều 166
162 下后,不可更行桂枝汤。若汗出而喘,无大热者,可与麻黄杏子甘草石膏汤。C170
162 Hạ hậu, bất khả canh hành Quế chi thang. Nhược hăn xuất nhi suyễn, vô đại nhiệt giả, khả dữ Ma hoàng hạnh tử cam thảo thạch cao thang. C170
Đoạn văn này thảo luận về chứng trạng và phương pháp điều trị sau khi ngộ hạ Thái dương, tà nhiệt hăm vào tạng phế. Sau khi phát hăn, tà nhiệt không được giải trừ nên ảnh hưởng đến tạng phế, hoặc sau khi dùng phương pháp tả hạ, biểu tà ảnh hưởng đến tạng phế, dẫn đến phế nhiệt gây ra chứng suyễn, nội dung đoạn văn này tương đồng với nội dung của điều C64, điểm khác biệt chỉ là, một là sau khi phát hăn và một là sau khi tả hạ mà thôi.
163 太阳病,外证未除而数下之,遂协热而利。利下不止,心下痞硬,表里不解者,桂枝人参汤主之。C171
163 Thái dương bệnh, ngoại chứng vị trừ nhi sác hạ chi, toại hiệp nhiệt nhi lợi. Lợi hạ bất chỉ, tâm hạ bĩ ngạnh, biểu lư bất giải giả, Quế chi nhân sâm thang chủ chi. C171
Phương thang Quế chi nhân sâm
Nhân sâm thang tức Lư trung thang
Gia quế tái tiễn bĩ lợi thường
Phương trung quế thảo giai tứ lạng
Đồng hành tam lạng truật sâm khương
Quế chi 4 lạng, bỏ vỏ Cam thảo 4 lạng, nướng Bạch truật 3 lạng Can khương 3 lạng
5 vị thuốc trên, dùng 9 thăng nước, nấu trước 4 vị c̣n lại 5 thăng, cho Quế vào nấu tiếp c̣n 3 thăng, uống 1 thăng lúc thuốc ấm, ngày uống thêm 1 lần, đêm uống một lần.
Đoạn văn này thảo luận về chứng trạng và phương pháp điều trị chứng Thái âm hư hàn kèm theo biểu tà của kinh Thái dương. Chúng ta đă biết về chứng bĩ lợi ở phần trên, chứng bĩ lợi sẽ dùng thang Tả tâm, nếu biểu tà không giải, “đương tiên giải biểu” là trước tiên phải giải biểu, biểu tà đă được giải trừ, sau đó có thể dùng thang Tả tâm. Đây là chứng bĩ ǵ? Chính là dùng thang Đại hoàng hoàng liên tả tâm. Thang Đại hoàng hoàng liên tả tâm được dùng để trị chứng nhiệt bĩ. V́ thế khi biểu tà chưa giải th́ trước phải giải biểu sau đó dùng thang Đại hoàng hoàng liên tả tâm để trừ chứng bĩ. Ở đoạn văn này tuy biểu tà chưa giải, nhưng chứng bĩ ở đây không phải là chứng nhiệt bĩ, mà chính là hàn bĩ, đồng thời lại “lợi hạ bất chỉ” là tiêu chảy không ngừng, đây là tiêu chảy nghiêm trọng. Biểu lư đều không giải như vậy, th́ không cần trước trị biểu sau trị lư, không tương đồng với ư nghĩa của thang Đại hoàng hoàng liên tả tâm, v́ thế nên dùng phép biểu lư lưỡng giải (phương pháp giải cả biểu và lư), dùng thang Quế chi Nhân sâm. Đây chính là tinh thần chung của đoạn văn.
Đây là điều “Hiệp nhiệt nhi lợi” (协热而利), và “Thái dương bệnh, quế chi chứng, y phản hạ chi, lợi toại bất chỉ, mạch xúc giả, biểu vị giải dă, suyễn nhi hăn xuất giả, Cát căn hoàng cầm hoàng liên thang chủ chi” (太阳病,桂枝证,医反下之,利遂不止,脉促者,表未解也,喘而汗出者,葛根黄
芩黄连汤主之), hai điều tuy đều kết hợp với chứng tiêu chảy do nhiệt, nhưng có khác biệt. Kết hợp với chứng tiêu chảy do nhiệt của thang Cát căn cầm liên là biểu và lư đều nhiệt, v́ thế có “mạch xúc”, “mạch xúc biểu vị giải dă” (脉促者表未解也) mạch xúc là biểu chứng chưa được giải trừ.
Chứng đi tả hiệp nhiệt ở điều này chính là biểu lư đều hàn, với chủ yếu là tâm hạ bĩ ngạnh, so sánh với Cát căn cầm liên thang chứng th́ một là biểu lư đều nhiệt và một là biểu lư đều hàn.
“Thái dương bệnh, ngoại chứng vị trừ, nhi sác hạ chi”, không phải là tả hạ một lần, hạ một lần đă là sai lầm, hạ nhiều lần lại càng sai. V́ điều trị sai lầm như vậy, “toại hiệp nhiệt nhi lợi, lợi hạ bất chỉ” (遂协热而利,利下不止) là liền hiệp với nhiệt gây tiêu chảy, tiêu chảy không ngừng. “hiệp nhiệt”, hiệp với biểu nhiệt mà tiêu chảy, là Thái dương biểu chứng phát nhiệt, đồng thời lại xuất hiện tiêu chảy không ngừng. Tiêu chảy không ngừng, trong dương hư mà có hàn, v́ thế nên “tâm hạ bĩ ngạnh”. Lúc này c̣n tồn tại ngoại chứng, bên ngoài c̣n biểu chứng phát sốt, sợ lạnh, bên trong tâm hạ bĩ ngạnh mà tiêu chảy không ngừng, v́ thế gọi là “biểu lư bất giải”, biểu lư, biểu của Thái dương và tiêu chảy không ngừng, tâm hạ bĩ ngạnh bên trong đều không được giải trừ. Phải làm thế nào? “Quế chi nhân sâm thang chủ chi” là thang Quế chi Nhân sâm trị bệnh này. Dùng vị Quế chi để giải phong hàn ở bên ngoài, dùng thang Nhân sâm, thang Nhân sâm là thang Lư trung, để bổ tỳ, ôn tán hàn tà ngưng tụ ở trung tiêu để trị chứng tâm hạ bĩ ngạnh, tiêu chảy. Thang Quế chi nhân sâm gồm 5 vị : Quế chi, Cam thảo, Nhân sâm, Bạch truật, Can khương, Bạch truật và Can khương trừ hàn thấp, Nhân sâm, Cam thảo bổ trung khí, hai vị này có vị ngọt có tác dụng bổ trung khí, trị tỳ khí hư tổn, Bạch truật Can khương trừ hàn thấp ngưng tụ, chính là ôn trung, vị Quế chi giả phong hàn ở cơ biểu, v́ thế phương thang này có tác dụng cả ở bên ngoài và bên trong “biểu lư kiêm cố chi pháp”
Chú ư phép nấu thuốc, “thượng ngũ vị, dĩ thuỷ cửu thăng, tiên chử tứ vị, thủ ngũ thăng”. 5 vị thuốc trên dùng 8 thăng nước, nấu 4 vị, c̣n lại 5 thăng nước. “Nhục quế canh chử”, sau đó cho vị Quế chi vào tiếp tục nấu, c̣n lại 3 thăng. “ôn phục nhất thăng”, ban ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thăng, tối uống 1 lần, uống thuốc lúc c̣n ấm, là uống hết trong ba lần. Điều này rất có ư nghĩa. {Thương hàn luận} giảng về lư pháp phương dược, thang Quế chi nhân sâm v́ sao sắc vị nhân sâm trước, sắc vị Quế chi sau? V́ vị Quế cho cho vào sắc sau sẽ tiết ra bên ngoài các vị thuốc trước mà có tác dụng giải biểu tốt hơn.
V́ vị thuốc Quế chi sắc sau, thang Lư trung sắc trước, thời gian sắc rất dài, sau đó thêm vị Quế chi vào sau, thời gian sắc vị Quế chi khá ngắn, nên Quế chi không bị ảnh hưởng của tác dụng bổ béo nặng nề của Nhân sâm Cam thảo, nên nó có nhiều khả năng giải biểu, trừ khứ phong hàn tại biểu. Nếu không sắc thuốc như vậy, mà sắc cùng lúc tất cả 5 vị thuốc, sẽ biến tác dụng phương hương tẩu biểu (thơm nhẹ hướng ra biểu) nhẹ nhàng của vị Quế chi thành tác dụng ôn trung, sẽ không thu được hiệu quả điều trị cả ở biểu và lư. Hiện nay chúng ta cũng vậy, khi kê đơn thuốc có vị Bạc hà, trong dược lư vị Bạch hà đều được sắc sau, tại sao? V́ Bạc hà nhẹ và trong, v́ thế cần sắc sau, nếu sắc vị Bạc hà trong thời gian dài, tác dụng bốc hơi của nó bị phá hoại, hiệu quả sẽ không tốt.
164 伤寒大下后,复发汗,心下痞,恶寒者,表未解也,不可攻痞,当先解表,表解乃可攻痞。解表宜桂枝汤,攻痞宜大黄黄连泻心汤。C172
164 Thương hàn đại hạ hậu, phục phát hăn, tâm hạ bĩ, ố hàn giả, biểu vị giải dă, bất khả công bĩ, đương tiên giải biểu, biểu giải nhưng khả công bĩ. Giải biểu nghi Quế chi thang, công bĩ nghi Đại hoàng hoàng liên tả tâm thang. C172
Câu này là đoạn văn thảo luận về phép trị liệu tiêu bản hoăn cấp (gốc ngọn nhanh chậm) nhiệt bĩ kiêm biểu chứng không giải.
Nội dung của câu trước là nếu như có chứng bĩ, c̣n biểu chứng chưa giải, dùng thang Quế chi nhân sâm ôn bổ tạng tỳ, giải biểu khứ hàn. Câu này với thang Đại hoàng liên tả tâm làm thí dụ, không đồng dạng với chứng tâm hạ bĩ của thang nhân sâm. Ở câu này là chứng nhiệt bĩ. “Thương hàn đại hạ hậu, phục hựu phát hăn” (伤寒大下后,复又发汗) Thương hàn sau khi đại hạ, lại phát hăn, là đă điều trị đảo ngược, đúng ra nên phát hăn trước, lại đi tả hạ, gây ra chứng tâm hạ bĩ ngạnh. Chứng tâm hạ bĩ h́nh thành sau khi dùng phép tả hạ mạnh, bệnh tà ở biểu đă giải hay chưa? “ố hàn giả, biểu vị giải dă” (恶寒者,表未解也), sợ lạnh là bệnh tà ở biểu chưa giải. “Ố hàn”, ở phía trước nên gia thêm hai chữ “phát nhiệt”, “phát nhiệt ố hàn giả, biểu vị giải dă” (发热恶寒者,表未解也) phát nhiệt sợ lạnh là bệnh tà ở biểu chưa giải. V́ sao cần thêm vào hai chữ “phát nhiệt”? Chứng tâm hạ bĩ có loại h́nh tâm hạ bĩ dương hư của thang Phụ tử tả tâm. Chứng trạng của thang phụ tử tả tâm chính là “Ố hàn hăn xuất”, cũng có chứng trạng sợ lạnh, nhưng không phát nhiệt. Để làm cho chứng trạng rơ ràng, v́ thế các y gia sau này cho rằng nên thêm vào hai chữ phát nhiệt trước hai chữ ố hàn “ố hàn”phía trước có “phát nhiệt”. Có phát nhiệt, lại có sợ lạnh (ố hàn), đây chính là “biểu vị giải dă” là biểu tà chưa được giải trừ. Đă có biểu tà ở kinh Thái dương, phát nhiệt sợ lạnh, thêm nhiệt bĩ ở tâm hạ, tâm phiền, tâm hạ bĩ, đại tiện không sảng khoái, nước tiểu vàng, đây cũng chính là “biểu lư vị giải giả” (表里未解者) là biểu lư đều chưa giải trừ.
Biểu lư không giải, th́ không thể công bĩ, trước tiên nên giải biểu “biểu giải năi khả công bĩ” (表解乃可攻痞) là biểu đă giải th́ có thể công bĩ, như vậy không nên dùng Đại hoàng hoàng liên tả tâm để trị liệu chứng bĩ nhiệt của tâm hạ, trước tiên nên giải biểu, phát hăn để trị bệnh tà tại biểu cho bệnh nhân. Tại sao? V́ nếu công hạ chứng bĩ, bệnh tà tại biểu sẽ thừa cơ hội xâm nhập vào trong, v́ thế trước tiên cần giải biểu tà, “biểu giải năi khả công bĩ” sau khi giải biểu th́ có thể dùng thang Đại hoàng hoàng liên để công giải chứng bĩ. “Giải biểu nghi Quế chi thang, công bĩ nghi Đại hoàng hoàng liên tả tâm thang” (解表宜桂枝汤,攻痞宜大黄黄连泻心汤) là giải biểu nên dùng thang Quế chi, trị bĩ nên dùng thang Đại hoàng hoàng liên tả tâm, đây chính là tŕnh tự điều trị bệnh. Thế th́ tại sao Đại hoàng hoàng liên tả tâm thang chứng phải giải biểu trước công bĩ sau, mà Quế chi nhân sâm thang chứng có biểu chứng th́ có thể biểu lư cùng giải? Nguyên nhân v́ trường hợp sau là hư chứng, thang Nhân sâm dùng chung với vị Quế chi có thể phù tŕ chính khí và khứ bệnh tà. Hoàng liên tả tâm thang chứng tuy cũng là chứng bĩ ở khí phận, nói một cách so sánh chứng hỏa bĩ, nhiệt bĩ không tính là chính khí hư tổn, có thể phát hăn giải biểu trước. Phát hăn giải biểu đối với chính khí không có ǵ là không tốt, sau khi phát hăn giải biểu sẽ tiến hành công bĩ, như vậy việc điều trị bệnh sẽ thoả đáng, phù hợp.
Có một liên hệ nội tại giữa các điều. Thang Toàn phú hoa đại giả thạch và thang Quế chi Nhân sâm, thang Quế chi Nhân sâm và thang Đại hoàng hoàng liên tả tâm, chính là có tŕnh tự.
Thang toàn phú đại giả thạch nói về vị khí bất hoà, tâm hạ bĩ ngạnh, ợ hơi; Thang Quế chi nhân sâm là giảng về chứng tỳ hư, tiêu chảy không ngừng, tâm hạ bĩ ngạnh. Biểu lư không giải của Quế chi nhân sâm thang chứng và biểu lư không giải của Đại hoàng hoàng liên tả tâm thang chứng, một nặng về chính khí, một nặng về tà khí. Quế chi nhân sâm thang chứng do tiêu chảy không ngừng, tỳ khí hư hàn, chứng biểu lư bất giải như vậy có thể sử dụng cùng lúc Nhân sâm và Quế chi để chủ yếu là phù tŕ chính khí. Biểu lư bất giải của Đại hoàng hoàng liên tả tâm thang chứng chủ yếu là khứ tà v́ thế phát hăn trước, công bĩ sau. Ư đồ không giống nhau. Chính khí hư nhược th́ nên phù tŕ chính khí trước, chính khí không hư nhược th́ nên khứ bệnh tà trước, Là tŕnh tự phải chú ư lĩnh hội.
165 伤寒,发热,汗出不解,心下痞硬,呕吐而下利者,大柴胡汤主之。C173
165 Thương hàn, phát nhiệt, hăn xuất bất giải, tâm hạ bĩ ngạnh, ẩu thổ nhi hạ lợi giả, Đại sài hồ thang chủ chi. C173
Điều này giảng về chứng trạng và phương pháp điều trị kinh Thiếu dương kèm theo chứng lư thực ở kinh Dương minh. Ở điều này có 3 chứng trạng chủ yếu của đại sài hồ thang chứng: Thứ nhất là chứng trạng phát nhiệt, chứng phát nhiệt này c̣n xuất mồ hôi mà không giải; Thứ hai là chứng trạng tâm hạ bĩ ngạnh; Thứ ba là chứng thổ lợi là ẩu thổ và tiêu chảy. Chứng trạng của thang Đại sài hồ chúng ta đă đọc qua. “Ẩu bất chỉ, tâm hạ cấp, uất uất vi phiền” (呕不止,心下急,郁郁微烦) ẩu thổ không ngừng, tâm hạ cấp bách, ưu uất và hơi phiền muộn, thuộc về chứng trạng của thang Đại sài hồ, lúc đó chúng ta nhấn mạnh vấn đề, người bệnh này đại tiện táo bón, chính là kinh Thiếu dương và kinh Dương minh cùng bị bệnh, bệnh tà dương nhiệt của Thiếu dương đă ảnh hưởng đến vị (dạ dày), dương minh vị tràng táo nhiệt liền xuất hiện một số hội chứng như vậy. Điều này xuất từ bệnh sốt thương hàn, có chứng trạng phát sốt sợ lạnh. Trong quá tŕnh điều trị đă phát hăn, sau khi phát hăn, bệnh không được giải trừ, phần dưới lại nói đến “Tâm hạ bĩ ngạnh, ẩu thổ nhi hạ lợi giả” (心下痞硬,呕吐而下利者) là không đề cập đến chứng trạng sợ lạnh, chỉ đề cập đến chứng trạng phát sốt, tâm hạ bĩ ngạnh, ẩu thổ và tiêu chảy, có vẻ như bệnh này có những điểm tương tự với chứng trạng của thang Tả tâm đă giới thiệu ở phần trên, nhưng lại khác biệt.
Khác biệt ở những điểm nào? Điểm thứ nhất chính là phát sốt, một là tâm hạ bĩ ngạnh. Hội chứng của thang Đại sài hồ giảng về chứng tâm hạ cấp, ở điều này là tâm hạ bĩ ngạnh, tâm hạ bĩ ngạnh kết nối với tâm hạ cấp th́ có thể thấy chứng tâm hạ bĩ ngạnh này không phải như b́nh thường, không phải là chứng trạng ở mức độ b́nh thường của thang sinh khương tả tâm, Cam thảo tả tâm hay Bán hạ tả tâm, mà mức độ tâm hạ bĩ ngạnh rất nghiêm trọng, nếu không nghiêm trọng th́ sao lại dùng thang Đại sài hồ? Thứ hai là chứng ẩu thổ, đặt chứng trạng ẩu thổ lên phía trước, cho thấy chứng ẩu thổ nặng, “ẩu thổ nhi hạ lợi”, “ẩu bất chỉ, tâm hạ cấp, uất uất nhi phiền” v́ thế ở điều này chứng trạng ẩu thổ cũng rất trọng yếu, không phải là một chứng trạng b́nh thường. Ở trên các chứng trạng của các thang tả tâm chỉ viết chữ ẩu mà không thêm chữ “thổ”, c̣n ở đây là ẩu thổ. Chứng tâm hạ bĩ ngạnh rất cấp bách, ẩu thổ cũng rất nghiêm trọng, lại thêm chứng tiêu chảy, trên thực tế bn c̣n sốt nhẹ, đây không phải do khí của tỳ vị hư nhược, chứng hàn nhiệt bĩ của thăng giáng bất lợi. Vậy đây là chứng trạng ǵ? Đây là khí hoả của can đảm bức bách xâm lấn vị tràng, dẫn đến vị khí trào ngược, gây ẩu thổ. V́ bệnh chứng ở đây là nhiệt, không phải hàn, v́ thế “nhi hựu hạ lợi” (而又下利), biến thành nhiệt lợi (đi tả nóng) rất dễ nhận ra, chứng tiêu chảy này không b́nh thường, chứng mà hiện nay mọi người gọi là chứng kiết lỵ, tuy là đi đại tiện, nhưng lại không sảng khoái, cảm giác rất muốn nhưng khó đại tiện, chính là chứng kiết lỵ, mà không phải là chứng tiêu chảy. Như vậy đây không phải là khí bên trong bất hoà của tỳ vị hư nhược mà là một thực chứng do hoả khí của can đảm bức bách vị tràng gây ra, cho nên có thể dùng thang Đại sài hồ.
Người xưa cho rằng thang Đại sài hồ có tác dụng lưỡng giải, có thể giải trừ bệnh ở kinh Thiếu dương, lại có thể giải trừ bệnh ở kinh dương minh, v́ thế gọi là phép lưỡng giải, có thể hạ nhiệt, cũng có thể điều trị chứng tâm hạ bĩ ngạnh và khí hoả ngưng trệ của chứng ẩu thổ tiêu chảy. Chứng tâm hạ bĩ ngạnh ở đây là một thực chứng, không phải là hư chứng. Có đau hay không đau? Có thể dùng tay ấn nắn vào tâm hạ bĩ ngạnh, ấn vào có đau không? Đây đều là có thể. Đọc sách của cổ nhân phải suy rộng ra “ cử nhất phản tam” (举一反三) là suy một ra ba, cùng nhau phát minh, nh́n trước mà biết phía sau, có như vậy mới có thể đề xuất trọng điểm, có thể nêu bật được ư nghĩa của biện chứng, nếu không sẽ rất khó để hiểu rơ vấn đề.
Có một vài nhà chú giải đề nghị đổi chữ “hạ” (下) thành chữ “bất”(不), “ẩu thổ nhi bất lợi giả, đại sài hồ thang chủ chi”(呕吐而不利者,大柴胡汤主之), điều này là sai lầm. Họ cho rằng “kư nhiên thị hạ lợi liễu, yên hữu dụng Đại sài hồ thang trị lư hồ?” (既然是下利了,焉有用大柴胡汤治里乎?)đă là tiêu chảy sao có thể dùng thang Đại sài hồ để điều trị? Kỳ thực đây là chứng hạ lợi. Hồ Hi Thứ lăo tiên sinh đă rất nhiều lần dùng thang Đai sài hồ để điều trị chứng kiết lỵ. V́ chứng kiết lỵ có quan hệ với t́nh trạng sơ tiết không thuận lợi của can đảm, với chứng lư cấp hậu trọng do công năng sơ tiết không thuận lợi của can đảm, thang Đại sài hồ có Đại hoàng, Thược dược, Chỉ thực, Hoàng cầm có tác dụng sơ tiết can lợi đảm, cũng có thể thanh nhiệt ở vị tràng, v́ thế thang dược Đại sài hồ có tác dụng điều trị chứng hạ lợi. V́ thế không nên thay đổi, thay đổi là sai lầm. Người viết và một đồng học thực tập ở Y viện Đới Lưỡng, có một bệnh nhân hạ lợi, lư cấp hậu trọng, mạch đập nhanh, hoạt sác, người viết nói với các đồng chí trong lớp nâng cao là dùng thang Bạch đầu ông, v́ đây là chứng kiết lỵ do nhiệt. Sau khi uống thang Bạch đầu ông người bệnh lại đến, nói rằng uống thuốc thấy tốt hơn, người viết hỏi tốt hơn như thế nào? Người bệnh đáp là bệnh có chút nhẹ hơn, nhưng mạch vẫn c̣n hoạt sác, rêu lưỡi của người bệnh có màu vàng, người bạn đồng học hỏi có nên cho bệnh nhân tiếp tục uống thang Bạch đầu ông không? Người viết đáp nên gia thêm vị Đại hoàng, người bạn hỏi lư do tại sao gia thêm Đại hoàng? Người viết đáp sau khi uống thang Bạch đầu ông tại sao rêu lưỡi bệnh nhân lại c̣n màu vàng? Điều này cho thấy trong ruột bệnh nhân có ứ nhiệt, nếu chỉ dùng phép thanh nhiệt th́ không hiệu quả, thang Bạch đầu ông có Hoàng liên, Hoàng bá, Bạch đầu ông, Tần b́, không tiết nhiệt th́ không được, khi đă tiết nhiệt bệnh sẽ biến chuyển tốt, v́ thế bắt đầu dùng thang Tiểu thừa khí, gia thêm một vài vị thuốc khác, sau khi uống bệnh sẽ thuyên giảm. “Hạ chi hoàng tự khứ” (下之黄自去) là sau khi tả hạ rêu lưỡi sẽ hết vàng. Chúng ta trên lâm sàng trị liệu chứng hạ lợi là dùng “Thông nhân thông dụng” (là phương pháp phản trị, dùng phép thông để trị chứng thông tiết), chứng hạ lợi dùng Đại hoàng, Chỉ thực không phải là điều ǵ mới. Trương Khiết Cổ, Lư Đông Viên đều có thang Thược dược. “Thược dược trệ hạ tiện nùng huyết, phúc thống Cầm Liên Thược dược quy” (芍药滞下便脓血,腹痛芩连芍药归), thang Thược dược có một phép gia giảm, đó là “Đại tiện tần sác, nhi hạ trọng nan thông giả, gia Đại hoàng” (大便频数,而下重难通者,加大黄) đại tiện nhiều lần mà nặng đ́ khó thông, được thêm vị Đại hoàng. V́ thấp nhiệt ngưng tụ thành chứng lỵ, không gia thêm Đại hoàng th́ không trừ khứ được ngưng tụ trong ruột, v́ thế thang Đại sài hồ trị chứng ẩu thổ mà mà hạ lỵ, thuộc về tính thực nhiệt, và điều này là không lạ.
Điều này được so sánh hỗ tương với chứng trạng của thang Quế chi Nhân sâm. Có tác dụng chủ yếu là phù trợ chính khí, chủ yếu là hư hàn, bên ngoài phát nhiệt sợ lạnh, bên trong tiêu chảy không ngừng, biểu lư không giải, dùng thang Quế chi Nhân sâm. C̣n ở đây bệnh nhân phát sốt nhưng chưa sợ lạnh, “tâm hạ bĩ ngạnh, ẩu thổ nhi hạ lợi giả” (心下痞硬,呕吐而下利者), là tâm hạ bĩ cứng, ẩu thổ và hạ lợi, trường hợp này chủ yếu là trừ khứ bệnh tà, không được dùng phép bổ, bổ là sai. V́ thế mạch của trường hợp này là hữu lực, mạch huyền hoạt hữu lực, rêu lưỡi màu vàng, chất lưỡi phải hồng, đây là những hàm ư và nó phải như vậy. “Ẩu thổ nhi hạ lợi”, ẩu thổ khá nặng mà c̣n kèm theo hạ lợi. Chứng tâm hạ bĩ ngạnh này c̣n phát sốt không hạ, hoả của can đảm bức bách vị tràng, vị tràng bất hoà, bên trên th́ ẩu thổ, bên dưới th́ kiết lỵ, nên cần dùng thang Đại sài hồ.

166 病如桂枝证,头不痛,项不强,寸脉微浮,
胸中痞硬,气上冲咽喉,不得息者,此为胸有寒也,当吐之,宜瓜蒂散。C174

166 Bệnh như Quế chi chứng, đầu bất thống, hạng bất cường, thốn mạch vi phù, hung trung bĩ ngạnh, khí thượng xung yết hầu, bất đắc tức giả, thử vi hung hữu hàn dă, đương thổ chi, nghi qua đế tán. C174
Qua đế tán
Hung trung hữu hàn bĩ ngạnh tắc
Khí xung yết hầu chí tức ngại
Qua đế hồng đậu nhất hợp thị
Thốn mạch vi phù dũng thổ bài
Qua đế một phần, sao vàng Xích tiểu đậu một phần
Hai vị trên, tán riêng rồi hoà trộn lại lấy 1 tiền, dùng một hợp hương thị, dùng 7 hợp nước nóng nấu nhừ, bỏ bă, lấy nước hoà với bột thuốc, uống ấm, nếu không thổ, gia thêm một chút, khi đă thổ th́ ngừng uống. Không dùng Qua đế tán cho người huyết hư.
Đây là điều giảng về chứng trạng và trị liệu cho chứng đàm thực ở trong ngực. Dùng phép thổ.
Tinh thần của đoạn văn này là ǵ? Chính là trong ngực bị lạnh. “Thử vi hung trung hữu hàn dă” (此为胸有寒也), đây là chú thích của Trương Trọng cảnh. Trong ngực bị lạnh, liên quan đến chứng lạnh trong ngực, người xưa có hai cách giải thích, một là theo nghĩa rộng, hai là theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng “hàn” tương đương với “tà”, “Thử vi hung hữu hàn dă” cũng là “Thử vi hung hữu tà dă”, người xưa thường dùng “hàn” và “tà” thay cho nhau. Thứ hai là theo nghĩa hẹp, đây là chữ ‘hàn” tương đương với chữ “đàm” . Đàm, khạc đàm, “đàm”, “thử vi hung hữu hàn dă”, cũng là “hung hữu đàm”
(là trong ngực lạnh, cũng là trong ngực có đàm). {THL} viết “đàm”, c̣n chữ “hàn” th́ sao? Một số y gia t́m hiểu, thời kỳ Chiến quốc, {Nội kinh} và thời Tần Hán không có chữ “đàm”. Từ được đề cập đến trong {Kim Quỹ Yếu lược} là “Dật ẩm”, Nguyên lai của hai từ “đàm ẩm”(痰饮) là hai chữ “đạm ẩm”( 淡饮). Thời kỳ đó không có chữ đàm ẩm (痰饮), măi đến thời nhà Nguỵ, nhà Tấn, chữ “đàm ” mới xuất hiện trong {Danh Y Biệt Lục}.V́ chúng tôi không làm công việc nghiên cứu, nhưng chúng tôi có ư kiến về vấn đề này khi chúng tôi đọc các ghi chú của cuốn sách, v́ vậy tôi muốn chia sẻ với các bạn, nói cách khác “hung hữu hàn” chính là “hung hữu đàm” (Ngực bị lạnh là ngực có đàm). Đàm là vật chất cũng là sản phẩm bệnh lư, ngược lại đàm cũng là nguyên nhân gây bệnh, v́ thế dù đàm ở đâu cũng sẽ phát sinh bệnh.
“Hung vi dương vị tựa thiên không”lồng ngực là vị trí dương tựa như bầu trời, lồng ngực ở trên khí hải, là nơi dương khí tụ hội, bên trong lồng ngực có uất đàm, sẽ gây trở ngại cho dương của lồng ngực, dương của lồng ngực đă bị trở ngại, nó sẽ không mở mang thuận lợi, v́ thế xuất hiện một chút biểu chứng. V́ doanh vệ đều theo lồng ngực mở ra thể biểu (bên ngoài), hiện tại trong lồng ngực đă có đàm, dương của ngực không thuận lợi, khí của vệ dương bất lợi, v́ thế người này có một số chứng trạng của thang Quế chi. Chứng trạng của thang Quế chi là ǵ? Phát nhiệt, xuất hăn, sợ gió. “Bệnh như Quế chi chứng”, chữ “như” chính là chữ “tượng”, đây là hàm ư chỉ là giống, mà không phải là Quế chi chứng, phát nhiệt xuất mồ hôi có điểm giống như có biểu tà. “đầu bất đông, hạng bất cường” (头不疼,项不强) Nhưng không đau đầu, cổ không cứng, chứng trạng của thang Quế chi “Thái dương chi vi bệnh, mạch phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn” là chứng của kinh mạch Thái dương, ở đây không có những chứng trạng này, cho thấy đây không phải là Quế chi chứng, bất quá chỉ có những điểm tương tự mà thôi, đây chính là dương của lồng ngực không thuận lợi mà dẫn đến biểu khí bất hoà.
Đại hăm hung thang chứng “Kết hung giả, hạng diệc cường, như nhu kính trạng, hạ chi tắc hoà, nghi Đại hăm hung hoàn” (结胸者,项亦强,如柔痉状,下之则和,宜大陷胸丸), chứng thuỷ nhiệt kết ở lồng ngực có khi đầu gáy cũng cứng, cũng giống như co giật nhẹ, có xuất mồ hôi. Vị trí của ngực ở trên cao, là vị trí của dương, sau khi thụ tà, sẽ có chứng trạng tựa như chứng thương hàn. Dương khí trong ngực đă bị bệnh, có lúc xuất hiện chứng trạng tựa như chứng thương hàn, tựa như biểu chứng. “Thốn mạch vi phù, hung trung bĩ ngạnh, khí thượng xung yết hầu, bất đắc tức giả”( 寸脉微浮,胸中痞硬,气上冲咽喉,不得息者)Mạch thốn phù nhẹ, trong ngực bế tắc và cứng, khí ngược lên cổ họng, không thở được, là luận về mạch chứng của bệnh. Làm sao biết được lồng ngực bị lạnh? “Thốn mạch vi phù” (寸脉微浮), căn cứ theo những ǵ người xưa ghi chép lại, “thượng bộ hữu mạch, hạ bộ vô mạch, kỳ nhân đương thổ, bất thổ tắc tử” (上部有脉,下部无脉,其人当吐,不吐则死), “thượng bộ hữu mạch” chính là mạch thốn, “thượng bộ” chính là mạch thốn, “hạ bộ vô mạch” là chỉ về bộ quan bộ xích, nếu như thấy mạch như vậy, “kỳ nhân đương thổ”, nên dùng phép thổ, nếu như bệnh nhân không thổ, có thể bệnh nhân sẽ chết ngạt. Căn cứ theo những ghi chép lại, mạch thốn phù nhẹ th́ mạch quan và xích trầm phục. V́ sao? V́ khi khí cơ bế tắc, khí đạo không thuận lợi, nên những mạch này không nổi lên được.
V́ sao mạch thốn bộ lại phù nhẹ? Một là bệnh tà ở lồng ngực có cơ hội vượt lên, chính khí khiến cho tà khí khi ở trên “nhân nhi thổ chi”( 因而吐之)nhân cơ hội đó mà thổ ra, có cơ hội vượt lên trên. “Hung trung bĩ ngạnh, khí thượng xung yết hầu, bất đắc tức giả” (Trong ngực bế tắc, khí ngược lên cổ họng, không thở được) Trong ngực bĩ ngạnh, bế tắc. Bế tắc phiền muộn, khí ngược lên họng khiến hô hấp khó khăn. “Nhi bất đắc tức giả” không thở được ở đây là ǵ? Đàm và khí nghịch lên, đàm khí nghịch th́ cần thổ ra, lại không thổ được. Tuy có cơ hội đàm khí vượt lên, nhưng lại không thổ ra được, v́ thế khí trào lên yết hầu, mà không thở được “nhi bất đắc tức”. Đây là bệnh rất nặng. “Thử vi hung hữu hàn dă”, trong ngực có hàn đàm, v́ bệnh có cơ hội chuyển lên trên, “khí thượng xung yết hầu” (khí trào lên cổ họng), như thế mạch thốn cũng phù nhẹ, nên theo đà bệnh ở trên mà vượt lên(nhân thế lợi đạo); Bệnh tại biểu “hăn nhi phát chi” (phát hăn để phát tán bệnh), v́ thế“nghi Qua đế tán” cho bệnh nhân uống Qua đế tán. Uống Qua đế tán để thổ đàm ra ngoài, thổ được đàm th́ khí dương ở lồng ngực có thể thăng, bệnh sẽ có chuyển biến tốt.
Phương Qua đế tán, một là vị Qua đế “ngao hoàng” là sao vàng; Ngoài ra c̣n vị Xích tiểu đậu, “Xích tiểu đậu nhất phân, Qua đế nhất phân” là hai vị thuốc có lượng bằng nhau. Sau đây là phép sắc uống nên chú ư, “hai vi, thuốc tán riêng, sau khi tán thành bột trộn đều với nhau, dùng 4g bột thuốc, chia làm 3 phần, không nên dùng nhiều, dùng một hợp Hương thị, dùng 7 hợp nước sôi, nấu nhừ như cháo loăng, sau đó bỏ bă, dùng nước hoà với bột thuốc, uống ấm, nếu không thổ, uống thêm chút một , ba phần nếu không thổ, có thể gia đến 4 phần, “đắc khoái thổ năi chỉ”. (Thổ rồi nên ngưng uống thuốc). “Chư vong huyết hư gia, bất khả dữ Qua đế tán”(Những ngườ mất máu hư nhược không được dùng Qua đế tán) thuốc này rất mạnh, có thể tống mọi thứ trong dạ dày và ruột ra ngoài. V́ thế, những bệnh nhân thân thể hư yếu, mất máu, khí huyết hư suy, người lớn tuổi, có bệnh về năo, bệnh tim không nên dùng Qua đế tán.

Bây giờ nói về tác dụng của Qua đế tán. Cổ nhân cho rằng đây là phép toan khổ dũng tiết (vị chua và vị đắng có tác dụng tiết ra mạnh mẽ) . Vị Qua đế c̣n được gọi là khổ Đinh hương, đây là vị thuốc đặc biệt đắng, là phần đáy và phần đuôi của quả dưa, xích tiểu đậu có vị chua nhẹ, một vị đắng một vị chua sẽ gây ẩu thổ, toan khổ dũng tiết vi âm (chua đắng gây thổ mạnh thuộc âm). Qua đế là một vị thuốc gây nôn, có khả năng nôn thực tà trong ngực ra ngoài, nếu không có thực tà th́ không được dùng Qua đế. V́ sao cần dùng Hương thị? Đậu thị là vị thuốc thanh tuyên, có tác dụng tuyên dương, thanh tuyên, v́ thế có tác dụng đưa thuốc lên trên, nên có khả năng hỗ trợ Qua đế thổ xuất đàm thấp ra khỏi lồng ngực, Đậu thị chính là thuốc hỗ trợ. Thường nôn ra cái ǵ sau khi uống thuốc? Có khi như là nước rau, có khi nước rau vắt ra, có khi có màu xanh, có khi màu vàng, có khi nôn ra đàm dăi đặc, nước bọt dính chảy ra liên tục, ngay sau khi thổ xuất là có cảm giác dễ chịu. Khỉ ẩu thổ th́ đầu đầy mồ hôi, toàn thân xuất hăn đầm đ́a, ẩu thổ có tác dụng giải biểu, điều này thể hiện ở chỗ, v́ khi nôn th́ rất khó chịu, lợm giọng cũng khó chịu, mặt bừng đỏ, mạch máu căng phồng, đầu đầy mồ hôi, toàn thân cũng vậy, v́ thế mà sợ gió, cần phải tránh gió. Đó là một điểm.
Thứ hai là, trước khi nôn tốt nhất là dùng dây bằng vải rộng để thắt bụng lại, việc này làm cho bạn nôn nhanh hơn và cơ bụng cũng bớt khó chịu. Thứ ba là khi nôn luôn luôn bị váng đầu, v́ thế khi nôn nên nhắm mắt, không nên mở mắt sẽ bị váng đầu. Thổ cũng phân ra. “Thổ bất chỉ giả” (吐不止者) thổ không ngừng được, thổ ra mật xanh, mật vàng, thổ ra đàm răi vẫn c̣n thổ. Phải làm sao? Lúc này dùng Đại thông bạch ngao thang, cho bệnh nhân uống vào, sẽ không đưa lên nữa. Sau khi uống Qua đế tán, tâm lư cảm thấy rất khó chịu và không thể nôn ra ngoài, tôi phải làm ǵ? Nó phụ thuộc vào t́nh h́nh. Một là “Thiểu thiểu gia chi” (少少加之), uống thêm từng chút. Lần thứ nhất nôn không ra, uống thêm một chút, có thể ngoáy họng hỗ trợ nôn, cũng có thể cho ăn một miếng đường, ăn xong th́ nôn, vị ngọt dễ gây nôn. Nôn cần phải nhanh, v́ thế nên nói rằng “Đắc khoái lợi tắc chỉ” , nôn nhanh th́ có cảm giác rất thoải mái, “oa oa” nôn ra được th́ rất tốt, giống như “đắc khoái lợi tắc chỉ” (得快利则止)nôn nhanh thuận lợi th́ chóng hết bệnh). Vấn đề ở đây là ǵ? Những thứ trong ngực như lạnh, đàm đều được nôn hết ra ngoài, không nên lưu lại.
Hăn, thổ , hạ là ba phương pháp khứ bệnh tà. “Bệnh tại biểu, hăn nhi phát chi; Bệnh tại thượng, nhân nhi thổ chi; Bệnh tại lư, hạ nhi kiệt chi”(Bệnh ở biểu (bên ngoài) dùng hăn pháp (phép xuất mồ hôi) để phát tán; Bệnh ở trên, nhân theo đó (bệnh ở trên) mà dùng phép thổ (nôn) bệnh tà ra ngoài; Bệnh ở bên trong, dùng phép hạ cho hết bệnh tà) đây là ba phương pháp trị bệnh của cổ nhân. Hiện nay hai phương pháp phát hăn và tả hạ là hai phương pháp thường được sử dụng, phương pháp thổ (gây nôn) thường hiếm khi sử dụng. Bản thân người viết chưa hề dùng phương pháp này trong suốt thời gian hành nghề y của ḿnh. V́ thế phương pháp này có vẻ như danh tồn thực vong (có tên mà không có thực). Phép thổ cũng không giới hạn ở Qua đế tán, Bạch phàn cũng gây ẩu thổ, thuốc gây ẩu thổ c̣n có một số loại, nhưng Qua đế tán là thuốc thường được sử dụng, v́ thế chúng ta thường đề cập đến phương này khi nói đến thổ pháp. Đồng thời nên chú ư ghi nhớ là phải thật cẩn thận khi dùng phương pháp này đối với những bệnh nhân hư yếu, thân thể không tốt, có bệnh ở tạng phế, bệnh lao, bệnh tim. Lúc đó, có một thầy giáo dạy Trung cấp Y học cổ truyền, vợ anh ấy bị bệnh mà tôi không biết. Anh ấy đến gặp tôi vào ngày hôm đó và nói, “Thưa thầy Lưu, Qua đế tán sử dụng như thế nào? ‛Tôi không biết tại sao anh ấy lại hỏi, v́ vậy tôi đă giới thiệu ngắn gọn cho anh ấy. Anh nói Được rồi, tôi sẽ dùng nó cho vợ tôi. Vợ anh hơi loạn thần kinh, nôn thốc nôn tháo.
Một thời gian sau, thày giáo đó nói với tôi: “Thưa thầy, Qua đế tán rất tốt. ‛Tôi nói," Làm thế nào để bạn biết làm thế nào tốt? " ‛Anh ấy nói,“ Tôi đă đưa nó cho người nhà của tôi uống, và họ thực sự bị nôn mửa trong hơn nửa tháng. Sau đó tôi đă cho người bệnh uống một số loại thuốc bổ.
Trong ngực bế tắc và cứng là trong ngực có đàm, dương của ngực bế tắc, khí cơ bất lợi, doanh vệ bất hoà, v́ thế bệnh này có điểm tương tự như Quế chi thang chứng, đặc điểm của chứng trạng là lồng ngực bế tắc và cứng, khí ngược lên yết hầu, không thở được “bất đắc tức”, đồng thời chính là 6 bộ mạch đều trầm, chỉ có mạch ở bộ thốn phù nhẹ, đây là tà khí muốn xuất lên trên, cho nên nhân thế bệnh thuận lợi cho phép thổ (nhân thế lợi đạo), dùng Qua đế tán để thổ bệnh tà ra ngoài.
Trường Xuân Ng Nghị
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-12-17 21:14:41
Từ điều 167 đến điều 175
167 病胁下素有痞,连在脐傍,痛引少腹,入阴筋者,此名藏结。死。C175
167 Bệnh hiếp hạ tố hữu bĩ, liên tại tề bàng, thống dẫn thiểu phúc, nhập âm cân giả, thử danh tàng kết. Tử. C175
Đây là đoạn văn thảo luận về chứng chết của chứng kết ở ba tạng âm.
Ngực và sườn, chứng bĩ tắc ở ngực và chứng bĩ tắc ở hạ sườn chính là có liên hệ hỗ tương. Bĩ tắc ở hạ sườn không phải là bệnh mới, mà là bệnh cũ, v́ thế viết thêm “Tố hữu bĩ”, “tố” là b́nh tố, là trước khi bị bệnh đă có dạng bệnh như vậy rồi. Bệnh ǵ? Là cảm giác khó chịu ở hạ sườn, bế tắc không thoải mái. Phạm vi có lớn không? “hạ liên tề bàng” là từ hạ sườn xuống đến cạnh rốn. Những miêu tả này là chứng trạng trước đây. “Thống dẫn thiểu phúc, nhập âm cân giả” (痛引少腹,入阴筋者), hiện tại bệnh đă phát tác, do cảm hàn mà phát tác, nên đau từ hạ sườn xuống đến bên cạnh rốn.
”Dẫn” là kéo, cơn đau kéo đến bụng dưới, đau rất nghiêm trọng. Mức độ nào? “Nhập âm cân”. Nói về nam giới là dương vật bị co rút vào trong. Đây là bệnh ǵ, v́ sao cơn đau lại nghiêm trọng như vậy? V́ sao co rút vào trong? “Vi tạng kết”, theo Trương Trọng Cảnh cho biết đây là chứng tạng kết, chứng tạng kết này và chứng kết hung không giống nhau, đây gọi là chứng tam âm tạng kết. “Hiếp hạ tố hữu bĩ”, là túc quyết âm can kinh có hàn. “Liên đới tề bàng”( nối liền xuống cạnh rốn) rốn bụng thuộc Thái âm, hàn tà ở can thừa tỳ của Thái âm, đây là hàn tà của can, hàn tà của tỳ ảnh hưởng đến Thiếu âm thận, bụng dưới có quan hệ với thận. Âm cân (dương vật) có quan hệ với Quyết âm, cũng có quan hệ với Thiếu âm, v́ thế “Hàn chủ thu dẫn”, thu dẫn (co lại) của hàn tà, lực của nó rất mạnh, làm cho cơ quan sinh thực co lại. Rất rơ rệt và dễ nhận thấy là sự độc hành của âm hàn, ba tạng tỳ, can và thận không có dương để hoá, không có dương để ôn, không ôn không hoá, không có khí dương hoà, nên đây là một chứng thuần âm vô dương là chứng chết (tử chứng). Chứng tạng kết này không phải là vấn đề của một tạng mà là vấn đề của 3 tạng can, thận và tỳ. Thế lực hàn tà của tạng kết này đă làm cho dương khí kiệt tuyệt, dương khí không thể làm ấm, không thể hoá, không ôn không hoá nên chỉ là sự việc của một phía âm hàn, nên hàn tà thu dẫn mới đạt đến mực độ cao như vậy, đạt đến mức độ co rút của dương vật.
168 伤寒病,若吐、若下后,七八日不解,热结在里,表里俱热,时时恶风,大渴,舌上干燥而烦,欲饮水数升者,白虎加人参汤主之。C176

168 Thương hàn bệnh, nhược thổ, nhược hạ hậu, thất bát nhật bất giải, nhiệt kết tại lư, biểu lư câu nhiệt, thời thời ố phong, đại khát, thiệt thượng can táo nhi phiền, dục ẩm thuỷ số thăng giả, Bạch hổ gia Nhân sâm thang chủ chi. C176
Đoạn văn trên thảo luận về chứng trạng và pp trị liệu nhiệt chứng của kinh Dương minh kèm theo khí và âm cùng bị tổn thương.
Bệnh do thương hàn, kinh qua trung gian “nhược thổ” (若吐) nếu thổ th́ tân dịch bị tổn thương ở trên, “nhược hạ” (若下), nếu hạ th́ tân dịch tổn hại ở dưới. Thổ, hạ tổn thương dương minh, tân dịch của vị. Bệnh này chưa tốt, thời gian bệnh là “thất bát nhật bất giải” (七八日不解), kéo dài bệnh đến 7,8 ngày bệnh chưa khỏi. “Nhiệt kết tại lư” (热结在里), ở đây chữ “kết” (结) là không đủ, gọi là “ngưng kết” (凝结)hay “tập kết” (集结). V́ dùng phép thổ và phép hạ, tân dịch trong vị (dạ dày) bị tổn hại, tà nhiệt tại biểu sẽ thừa cơ hội tập kết ở trong (lư). “Lư” đối với biểu mà nói là bệnh tà ly khai Thái dương biểu, mà xâm nhập Dương minh lư rồi. Vị trí bệnh không thuộc Thái dương mà đă thuộc về Dương minh. Nhiệt của dương minh, “nhiệt kết tại lư” là tập kết trong lư. Nhiệt ở đây nếu như chưa luyện kết thành thực, c̣n chưa đạt đến mức độ ngưng kết thành phân khô, vẫn cứ là dương minh vị khí táo nhiệt, v́ thế nó là biểu lư đều nóng. Câu đầu là nhiệt kết ở trong, câu thứ hai là biểu lư đều nhiệt, như vậy sẽ dễ hiểu hơn. Nhiệt ở bên trong, nhưng khí đạt ra ngoài, nhất định nhiệt sẽ lan ra toàn thân, tràn ngập trong ngoài (biểu lư).
Hiển nhiên dễ nhận thấy, đây không phải là nhiệt luyện kết trong tràng vị, không phải là chứng táo nhiệt kết của Thừa khí thang chứng, mà chính là vấn đề của biểu tà Thái dương tập kết tại Dương minh, v́ thế đây chính là nhiệt chứng của Dương minh bệnh mà không phải là thực chứng của Dương minh bệnh, đây là vấn đề cần phân biệt. “Thời thời ố phong”, hàm ư, đang khi xuất nhiều mồ hôi như một hội chứng thớ thịt không kiên cố, v́ biểu và lư đều nóng, nhiệt tà tăng cao, thớ thịt khai tiết, tân dịch tiết ra ngoài, v́ thế nên có mồ hôi. V́ Dương minh bệnh nhiều mồ hôi, thớ thịt không kín đáo. Là đang khai mở, v́ thế luôn sợ gió. Sợ gió và sợ lạnh là từ hỗ tương, phần dưới có một điều giảng về “bối bộ vi ố hàn” (背部微恶寒)lưng hơi sợ lạnh. Một nguyên nhân khác là do nhiệt thậm (quá nóng), nhiệt thậm gây tổn thương tân dịch, tân dịch sẽ thấm ra ngoài, là xuất hăn. Nhiệt cũng gây tổn thương đến khí, v́ thế khí cũng bị tổn hại, tân dịch cũng tổn thương, nên sẽ xuất hiện chứng trạng khí âm lưỡng thương.
Tân dịch thụ thương, mà nhiệt không hết, v́ thế bệnh nhân rất khát, lưỡi khô và phiền muộn “Đại khát, thiệt thượng can táo nhi phiền” (大渴,舌上干燥而烦), xuất hiện một số chứng trạng táo nhiệt gây tổn thương tân dịch.
Nhiệt gây tổn thương cho khí, v́ thế mà mà có chứng trạng “Thời thời ố phong” . “Thời thời ố phong” có hai cơ chế, một là nhiệt gây tổn thương cho khí, hai là thớ thịt không vững chắc kín đáo, có cả hai nhân tố này. Sợ gió là biểu hiện của khí đă bị tổn thương, khát là biểu hiện tân dịch đă bị tổn thương, so sánh hai tổn thương th́ tổn thương nào nặng và tổn thương nào nhẹ? Tổn thương tân dịch tệ hại hơn. Chúng ta đă biết Bạch hổ thang chứng có “Tứ đại chứng trạng” (bốn chứng trạng lớn), trong đó có “Đại khát” . “Đại khát” là do đâu? Chính là {Thương hàn luận} có một điều về “Đại khát”. “Đại khát”không phải là “Tiểu khát”. Làm sao biết là “Đại khát”? Là “Dục ẩm thuỷ số thăng giả”, bệnh nhân không uống nước th́ thôi, đă uống th́ uống rất nhiều, như vậy gọi là “đại khát”.
Khát, là có chứng trạng khô khan, v́ thế sẽ uống nước để tự cứu, nên cần uống nước. “Thiệt thượng can táo nhi phiền” (舌上干燥而烦), người này “thiệt thượng can táo” (舌上干燥),phía trên đầu lưỡi khô khan, câu này cho thấy là rất khô. Trong miệng khô khan, có điểm nào nổi bật? Chủ yếu là khô khan ở trên mặt lưỡi, điều này thực sự gọi là khô khan. Làm thế nào để biết lưỡi của tôi bị khô? Ở đây có các triệu chứng tự nhận thức và có các triệu chứng nhận biết khác. Tự nhận biết triệu chứng là bệnh nhân cảm thấy lưỡi khô, cảm nhận của bác sĩ là triệu chứng phụ thuộc vào lớp phủ lưỡi, khi quan sát lớp phủ lưỡi th́ không thấy dịch thể trên bề mặt lưỡi, chính là lưỡi bị khô. Chỉ như vậy có đủ không? Không đủ, y sinh dùng tay cạch sờ vào lưỡi bệnh nhân, thấy khô khan không có tân dịch mới được, dùng mắt là dùng thị giác để quan sát, dùng tay sờ vào gọi là xúc chẩn (tiếp xúc để chẩn đoán).
“Phiền” có hai ư, phiền là thậm (là rất) có ư là khô khan khát nước không b́nh thường mà là nghiêm trọng, v́ thế đầu xương khớp đau nhức gọi là “phiền đông” là đau rất tệ hại, do đó chữ phiền này không nên hiểu là một cơn khó chịu mà c̣n là một t́nh trạng bệnh nghiêm trọng. Một số nhà chú thích không giải thích là tâm phiền, “thiệt thượng can táo nhi phiền” , khô khan rất nghiêm trọng, rất tệ hại. Nhưng trong Bạch hổ thang chứng chính xác là tâm phiền, phần dưới chúng ta sẽ nói về “khẩu táo khát, tâm phiền”. Bởi v́ “tứ đại chứng trạng” (四大症状) là đại phiền, đại nhiệt, đại khát, mạch hồng đại, v́ thế Bạch hổ thang chứng có tâm phiền, khó có thể nói rằng táo khát như vậy mà không tâm phiền được sao? Có thể loại bỏ tâm phiền được sao? Không có khả năng này.
Cho nên “phiền”ở đây là có ư nghĩa của táo khát nghiêm trọng, cũng có ư nghia là tâm phiền.
Bởi v́ bên trong có nhiệt, vị có nhiệt, v́ thế tâm sẽ phát phiền.
Theo quan điểm này, bệnh này là Dương minh nhiệt tà lan tràn khắp cơ thể, toàn thân rất nóng. Tân dịch bị tổn thương th́ khí bị thương, khí âm cùng bị tổn thương, dịch cơ thể bị khô khan đến mức nghiêm trọng th́ phải chữa trị như thế nào? “Bạch hổ gia Nhân sâm thang chủ chi”(白虎加人参汤主之), dùng Bạch hổ thang thanh nhiệt sinh tân dịch, gia Nhân sâm có thể trợ khí, lại có khả năng sinh tân dịch. Nếu sử dụng đơn thuần Bạch hổ thang sẽ không có tác dụng, bởi v́ “thời thời ố phong, đại khát, thiệt thượng can táo” được gia thêm Nhân sâm, Nhân sâm có nhiều tác dụng bổ khí, lại có thể sinh tân dịch, đây chính là quy luật dụng dược của Trương Trọng Cảnh. Như thang Sài hồ có chứng trạng khát, khứ Bán hạ, gia Quát lâu căn, ngoài ra nên tăng số lượng Nhân sâm trong thang. V́ sao cần phải tăng lượng Nhân sâm? V́ Nhân sâm là vị thuốc có tác dụng bổ khí lại có thể trợ âm, {Thần nông bản thảo kinh} viết: “Nhân sâm, vị cam, vi hàn, vô độc, chủ bổ ngũ tạng, an tinh thần, định hồn phách, chỉ kinh quư, trừ tà khí, minh mục, khai tâm ích trí” Nhân sâm, vị ngọt, hơi lạnh, không độc, chủ yếu bồi bổ ngũ tạng, an tinh thần, định hồn phách, trị chứng kinh sợ, trừ tà khí, sáng mắt, khai tâm ích trí (vui vẻ thông minh). Tại sao lại nói Nhân sâm “Bổ ngũ tạng”? V́ ngũ tạng là âm, ngũ tạng thuộc về âm, v́ thế Nhân sâm là vị thuốc có tác dụng bổ âm, đương nhiên Nhân sâm cũng có tác dụng bổ khí, có khả năng bổ khí cho Phế và Tỳ. Nếu như sốt cao tân dịch khô kiệt mà khí phận bị suy, khí là dương, tân dịch là âm, dương sinh âm trưởng, dương sát âm trưởng**, không dùng khí của phế vị phù trợ, th́ tân dịch không sinh sôi tốt được. Chỉ dùng Tri mẫu có được không? Là không được, v́ thế cần dùng Nhân sâm. Phục linh tứ nghịch thang chứng chính là âm dương lưỡng hư, thang Tứ nghịch bổ dương, Phục linh, Nhân sâm bổ âm, đây là một số suy nghĩ và quy tắc dùng thuốc của Trương Trọng Cảnh thời bấy giờ, đôi khi có những điểm khác biệt với sách và bản thảo thời nay.
Dương sinh âm trưởng, dương sát âm tàng là một câu trong Tố vấn. Âm dương ứng tượng đại luận, hầu hết các sách giải thích Nội kinh đều dùng cách lư giải hỗ tương các câu văn với nhau. Âm dương chính là căn bản của sinh sát, cũng chính là căn bản của Trưởng Tàng . Dương có thể sinh vạn vật cũng có thể sát vạn vật. Âm có thể giúp vạn vật phát triển cũng có thể ẩn tàng mọi vật. Chữ sát ở đây nên hiểu với ư là chế ngự, ràng buộc.
Xuân sinh Hạ trưởng, thu sát đông tàng, chính là ứng với chủ khí của bốn mùa, có thể giải thích theo Thiên hữu tứ thời ngũ hành, với sinh trưởng thu tàng trong âm dương ứng tượng đại luận.
169 伤寒无大热,口燥渴,心烦,背微恶寒者,白虎加人参汤主之。C177
169 Thương hàn vô đại nhiệt, khẩu táo khát, tâm phiền, bối vi ố hàn giả, Bạch hổ gia Nhân sâm chủ chi. C177
Ư của điều này tiếp liền với điều trước, tái thảo luận về chứng trạng và trị liệu của Dương minh nhiệt thịnh, khí âm cùng bị tổn thương. “Khẩu táo khát”, “tâm phiền” (miệng khát, tâm phiền) đều cho thấy kinh Dương minh bị nóng (hữu nhiệt), nóng ở khí phận của kinh Dương minh tổn thương tân dịch. “Bối vi ố hàn giả” (背微恶寒者), lưng sợ lạnh nhẹ, đây không phải là toàn thân “thời thời ố phong” (时时恶风), “Thời thời ố phong”và “bối bộ vi ố hàn” (lúc nào cũng sợ gió và vùng lưng hơi sợ lạnh) hai h́nh thức biểu hiện là khác nhau. Lưng thuộc dương, là nơi dương khí xuất nhập. Chứng trạng lưng sợ lạnh là khá nghiêm trọng, không phiền không khát, thân thể không sốt cao, mà trong miệng b́nh thường, trong miệng b́nh thường tức là miệng không khô, luôn luôn là phản ảnh dương khí của kinh Thiếu âm hư suy.
Đặc điểm lưng sợ lạnh của Bạch hổ thang chứng chính là “vi ố hàn giả” (微恶寒者) vi ố hàn là có một chút sợ lạnh, đồng thời có các chứng trạng như miệng khô khát, tâm phiền, mặt lưỡi khô. Chứng này cũng xuất mồ hôi, là biểu hiện của khe thớ thịt lỏng lẻo, do nhiệt gây tổn thương khí, vệ khí không kiên cố vững vàng, như vậy sẽ phản ảnh ở vị trí của dương là vị trí lưng hơi sợ lạnh. Đây cũng chính là phản ảnh của chứng khí âm cùng bị tổn thương và nhiệt tà tổn thương khí, và khác với dương hư ở kinh Thiếu âm có chứng trạng lưng sợ lạnh.
“Bạch hổ gia Nhân sâm thang chủ chi”, dùng thang Bạch hổ thanh nhiệt sinh tân, gia Nhân sâm bổ khí để sinh dịch, thể biểu vững vàng kín đáo, cho nên giải quyết được vấn đề lưng hơi sợ lạnh.
Một là sợ gió, một là sợ lạnh, đây là hỗ văn kiến nghĩa, khi sợ lạnh cũng có chút sợ gió, khi sợ gió th́ hàm ư cũng bao gồm sợ lạnh. V́ thế Bạch hổ thang chứng phân biệt không khó khăn, khí ở chỗ dương tà làm cho lưng sợ lạnh, có những lúc v́ thế mà chẩn đoán lẫn lộn.
170 伤寒脉浮,发热无汗,其表不解者,不可与白虎汤。渴欲饮水,无表证者,白虎加人参汤主之。C178
170 Thương hàn mạch phù, phát nhiệt vô hăn, kỳ biểu bất giải giả, bất khả dữ Bạch hổ thang. Khát dục ẩm thuỷ, vô biểu chứng giả, Bạch hổ gia Nhân sâm thang chủ chi. C178
Điều này thảo luận về nguyên tắc sử dụng và chứng cấm kỵ của thang Bạch hổ.
“Thương hàn mạch phù” (伤寒脉浮) chính là mạch trong đề cương của kinh Thái dương, “thái dương chi vi bệnh, mạch phù”, là bệnh ở kinh Thái dương. “Phát nhiệt vô hăn”(发热无汗)sốt không có mồ hôi cũng là bệnh ở kinh Thái dương, thái dương thương hàn là phát nhiệt không có mồ hôi, “phát nhiệt vô hăn” có hay không “ố hàn”? cũng có thể bao gồm ố hàn (sợ lạnh) bên trong. V́ sao chỉ đề cập đến “phát nhiệt”, mà không đề cập đến “ố hàn”? V́ việc sử dụng sai thang Bạch hổ luôn luôn là do có chứng trạng phát sốt, phát sốt là biểu nhiệt hay c̣n là lư nhiệt? Là nhiệt kết ở lư hay c̣n là nhiệt uất ở biểu? Ranh giới không rơ ràng, thang Bạch hổ được dùng quá sớm, ở giai đoạn Thái dương liền dùng thang Bạch hổ. V́ thế để loại bỏ t́nh trạng sai lầm này Trương Trọng Cảnh đề xuất ở đây, “Thương hàn mạch phù, phát nhiệt vô hăn, kỳ biểu bất giải giả” (伤寒脉浮,发热无汗,其表不解者)Thương hàn mạch phù, phát sốt không xuất mồ hôi là biểu tà Thái c̣n chưa được giải trừ, “bất khả dữ Bạch hổ thang” (不可与白虎汤) không được sử dụng thang Bạch hổ. V́ bệnh tà ở biểu, phong hàn bế uất, dương khí bất tuyên, v́ bế tắc nên phát sốt, loại phát nhiệt này không phát hăn th́ không giải được. Bạch hổ thang là trọng tễ lương dược (là thuốc rất mát), trong ôn bệnh gọi là tân lương trọng tễ. Nếu như bệnh tà c̣n ở biểu mà dùng thang Bạch hổ, thuốc hàn lương mạnh sẽ cản trở dương khí, dẫn đến tỳ vị hư hàn, tạo thành cơ hội cho dương tà bị hăm ở trong, bệnh tà ở biểu sẽ bị khốn uất, bế tắc, không xuất ra ngoài được, vấn đề có thể sẽ rất nghiêm trọng.
V́ thế không nên cho rằng có thể dùng vị Thạch cao bất cứ lúc nào, Trương Trọng Cảnh nói rất rơ ràng, chứng phát sốt do bệnh ở biểu chưa được giải trừ, mà mạch c̣n phù th́ không thể dùng thang Bạch hổ.
Vậy khi nào được dùng thang Bạch hổ? Nhất định là “Nhiệt kết tại lư” nhiệt tà tập kết ở trong và biểu tà đă được giải trừ. “Khát dục ẩm thuỷ, vô biểu chứng giả” (渴欲饮水,无表证者), “khát dục ẩm thuỷ” câu khát muốn uống nước chính là nhiệt trong kinh Dương minh đă tổn thương tân dịch, đă thành chứng lư nhiệt. “Vô biểu chứng” là không có biểu chứng như phát sốt sợ lạnh, mạch cũng không phù, lúc này có thể dùng thang Bạch hổ gia Nhân sâm. Điều này rất thú vị, chỉ trong một câu ngắn gọn nhắc nhở chúng ta, thày thuốc nên chú ư, không nên cứ phát sốt là dùng Thạch cao, nhiệt ở vệ phận không được dùng Thạch cao, v́ lúc này dương khí bị bế uất nên cần phát hăn.
Người viết cũng đă từng phạm sai lầm này, biểu tà chưa giải đă dùng Thạch cao. Thời xă hội cũ tôi là bác sĩ ở Đại liên. Có một bệnh nhân nữ họ Chu, bệnh nhân bị sốt, chính là phát sốt do biểu tà chưa giải. Người viết không phân phong hàn, phong nhiệt cho uống Ngân kiều tán gia Thạch cao, sau khi uống sốt không hạ, gia đ́nh này rất tin tưởng đối với người viết, trong quá khứ người viết điều trị cho người trong nhà đều có kết quả tốt, v́ thế lại cho người đến t́m. Người viết khám lại cho bệnh nhân, c̣n cho rằng lượng Thạch cao c̣n ít, v́ thế tăng lượng Thạch cao, bệnh nhân vẫn không hạ sốt, c̣n có chút thần hôn nói sàm, lúc này người viết không c̣n biện pháp ǵ. Đại liên với Sơn đông cách biển, ở Yên Đài có một lương y cao tuổi họ Phương, liền mời vị Đại phu này đến. Lăo Đại phu hỏi tại sao không mời bác sĩ địa phương? Người nhà trả lời là đă t́m rồi, là bs Lưu Độ Châu, Lăo đại phu liền xem đơn thuốc. Sau khi xem Lăo đại phu lắc đầu nói là người viết đă dùng Thạch cao quá sớm rồi. V́ sao Diệp Thiên Sĩ lại nói về vệ khí doanh huyết?, có lư do, có thứ tự. Bạn có thể dùng thuốc khí phận lúc bệnh ở vệ phận được không? Băng rơi xuống giống như băng giữ tà khí ở trong. Điều này giải quyết như thế nào? Hiện tại tà khí bế uất ở mức độ này và chúng không thể ra được. Lăo đại phu có nhiều kinh nghiệm, ông hỏi trong nhà có nuôi gà hay không? Hăy t́m cho một con gà trống. Khi mang gà trống đến, sai người cắt mào gà trống, lấy một ít máu gà cho vào một cái chén nhỏ, cho vào một ít rượu, khuấy cho đều, cho thêm một ít mật ong, hoà đều máu, rượu và mật ong, cho bệnh nhân uống, sau khi uống chùm chăn kín lên bệnh nhân đến khi bệnh nhân xuất mồ hôi là được.
Đắp chăn, uống máu mào gà có rượu có mật ong, người bệnh liền xuất mồ hôi, sau khi xuất mồ hôi vùng ngực của bệnh nhân xuất ra một mảng lớn các mụn lớn nhỏ thường gọi là bạch ẩn chẩn, không phải là Bạch bội, không có nước, sau khi hạ sốt, bệnh cũng khỏi. Sự việc này người viết không biết, chỉ nghe người chồng của bệnh nhân kể lại. Sau đó người viết đọc {Bản thảo cương mục} trong đó có truyền phương của nhà họ Nhan trị chứng ma chẩn bất xuất, đậu chẩn bất xuất có phương này là phương có máu của mào gà trống.
Từ đó về sau mỗi khi dùng vị Thạch cao người viết đều vô cùng cẩn trọng. Không nên khinh xuất sử dụng Thạch cao mà cần phải phân rơ giai đoạn của bệnh. Sau này học tập ư này của Trương Trọng Cảnh “Thương hàn mạch phù, phát nhiệt vô hăn, kỳ biểu bất giải giả, bất khả dữ Bạch hổ thang” (伤寒脉浮,发热无汗,其表不解者,不可与白虎汤) th́ có cảm giác vô cùng thân thiết. V́ thế mới hiểu v́ sao {Thương hàn luận} có phương pháp có phương thang. Cảnh Mỹ Trung Cảnh lăo nói {Thương hàn luận} có pháp có phương, “Pháp”là ǵ? Nơi này gọi là “pháp”. V́ sao gọi là “khả” (có thể)? V́ sao gọi là “bất khả”(không thể), bạn cứ phân tích vấn đề của hai phương diện này, bạn sẽ có luật pháp, sẽ có được sự tuân thủ.
171 太阳少阳并病,心下硬,颈项强而眩者,当刺大椎、肺俞、肝俞,慎勿下之。C179
171 Thái dương Thiếu dương tính bệnh, tâm hạ ngạnh, cảnh hạng cường nhi huyễn giả, đương thích Đại chuỳ, Phế du, Can du, thận vật hạ chi. C179
Điều này hỗ tương hô ứng với điều C150, cùng thảo luận về phép trị liệu và cấm kỵ của bệnh ở hai kinh Thái dương và Thiếu dương. Đầu tiên là bệnh ở kinh Thái dương, sau đó xuất hiện bệnh ở kinh Thiếu dương, đây gọi là hai kinh cùng bị bệnh. Chứng trạng là “tâm hạ bĩ ngạnh, cảnh hạng cường nhi huyễn giả” (心下痞硬,颈项强而眩者) đây là hội chứng xuất hiện trước sau của hai kinh Thái dương và Thiếu dương. Trị liệu nên dùng phép châm, không nên uống thuốc thang, châm huyệt Đại chuỳ, Phế du để giải bệnh tà ở kinh Thái dương, châm Can du để giải bệnh tà ở kinh Thiếu dương. “Thận vật hạ chi” là lời dặn ḍ, ngàn vạn lần không được dùng phép tả hạ, không v́ chứng trạng tâm hạ ngạnh mà dùng tiết pháp. Điều này và điều C150 đă giảng ở trên có ư tứ tương đồng. Điều C150 chính là cấm hăn, không được phát hăn, “phát hăn tắc chiêm ngữ” (发汗则谵语) (phát hăn bệnh nhân sẽ nói mê sảng). Điều này là cấm hạ, nếu hạ nhầm sẽ biến thành chứng kết hung. Ư tứ của hai điều này là thống nhất.
172 太阳与少阳合病,自下利者,与黄芩汤;若呕者,黄芩加半夏生姜汤主之。C180
172 Thái dương dữ Thiếu dương hợp bệnh, tự hạ lợi giả, dữ Hoàng cầm thang; Nhược ẩu giả, Hoàng cầm gia Bán hạ Sinh khương thang chủ chi. C180
Phương thang Hoàng cầm
Thái Thiếu tự lợi thập nhị táo
Nhị lượng Thược Cam tam lượng Cầm
Bất lợi nhi ẩu gia Khương Hạ
Khương tam Bán hạ bán thăng châm
Hoàng cầm 3 lạng Cam thảo 2 lạng (nướng) Thược dược 2 lạng Đại táo 12 quả (bổ)
Bốn vị trên, dùng 1 đấu nước, nấu c̣n 3 thăng, bỏ bă, uống ấm 1 thăng, uống thêm 1 lần vào ban ngày và 1 lần vào ban đêm. Nếu ẩu thổ, gia Bán hạ nửa thăng, Sinh khương 3 lạng
Điều này giảng về chứng trạng và phương pháp trị liệu chứng tiết tả do bệnh kết hợp ở hai kinh Thái dương và Thiếu dương.
“Thái dương dữ Thiếu dương hợp bệnh” (太阳与少阳合病), là đồng thời phát bệnh, có chứng trạng Thái dương, cũng có chứng trạng Thiếu dương. “Hợp bệnh lưỡng tam kinh đồng bệnh” (合病两三经同病), bệnh của hai ba kinh đồng thời xuất hiện, không phân trước sau, thứ tự, như vậy gọi là hợp bệnh. Trên cơ sở hợp bệnh, c̣n có một đặc điểm là “tự hạ lợi giả”. “Tự hạ lợi” là chưa trải qua tả hạ mà đă thành chứng hạ lợi (tiết tả). Lư do v́ sao? Thái dương và Thiếu dương hợp bệnh xuất hiện đặc điểm hạ lợi, là phản ảnh nhiệt của kinh Thiếu dương bức nhập vào trong, bức nhập vào tràng vị (ruột, dạ dày). Hạ lợi là lư chứng, lư chứng này thấy trên cơ sở Thái dương Thiếu dương hợp bệnh, v́ thế chính là nhiệt của kinh Thiếu dương bức bách tràng vị. Trong t́nh huống này, nếu như điều trị dựa theo Thái dương, là phát hăn, th́ không đúng, v́ đă xuất hiện Thiếu dương bệnh, mà Thiếu dương bệnh th́ cấm phát hăn. Nếu dùng phép tả hạ th́ cũng không đúng, v́ Thiếu dương bệnh cấm hạ, hăn pháp và hạ pháp đều không thích hợp, cả hai đều không thể sử dụng.
T́nh huống trước mắt chính là nhiệt của Thiếu dương bức bách tràng vị mà thành chứng tiết tả, v́ thế nên dùng phép thanh, trước là thanh nhiệt của kinh Thiếu dương, khiến nhiệt tà ở kinh Thiếu dương được giải trừ, chứng tiết tả sẽ tự ngừng lại. Khi đă trừ khứ nhiệt ở Thiếu dương th́ nhiệt ở vị tràng cũng được giải trừ. Nhiệt ở vị tràng đă được giải th́ chứng tiết tả liền được giải, tiết tả đă ngừng, nhiệt tà ở kinh Thiếu dương sẽ giảm, nhiệt thế của Thiếu dương giảm nhẹ, vận động then chốt (xu cơ) của Thiếu dương cũng nhân đó mà thuận lợi, bệnh tà ở kinh Thái dương v́ vậy mà được giải trừ. V́ thế
đây chính là một phương pháp trị liệu gồm thanh nhiệt ở Thiếu dương, hỗ trợ vận động then chốt (xu cơ) của Thiếu dương, khiến cho biểu chứng của Thái dương tự nhiên được giải trừ.
Nên cần cho bệnh nhân uống thang Hoàng cầm để thanh nhiệt cho Thiếu dương.
“Nhược ẩu giả” (若呕者), Nếu như bệnh nhân này bị trào ngược dạ dày, hoặc kèm theo đàm ẩm mà gây ẩu thổ, “dữ Hoàng cầm thang” (与黄芩汤) là với thang Hoàng cầm lại gia thêm Bán hạ, Sinh khương để hoà vị giáng nghịch trị ẩu thổ. Ư tứ này và thang Cát căn “Nhị dương hợp bệnh, tất tự hạ lợi, Cát căn thang chủ chi, nhược ẩu giả” (二阳合病,必自下利,葛根汤主之,若呕者), cũng có thể gia Bán hạ, ư cũng giống nhau. Thang Hoàng cầm gồm các thành phần: Hoàng cầm, Cam thảo, Thược dược, Đại táo, “Táo mai thập nhị thủ thành châm, nhị lượng Thược Cam tam lượng Cầm, lợi dụng bản phương ẩu gia vị, Khương tam Hạ thủ bán thăng châm”, trị chứng kinh Thiếu dương nhiệt tà tiết tả. Thái dương Dương minh hợp bệnh tiết tả, dùng thang Cát căn, Thiếu dương Dương minh tiết tả dùng thang Đại thừa khí. Đây dùng thang Hoàng cầm. Hoàng cầm là vị thuốc đắng lạnh, có tác dụng thanh nhiệt ở can đảm. Thược dược có thể dưỡng âm cho can đảm, có thể phạt mộc trong thổ, phạt mộc khí hoành nghịch trong tỳ vị, c̣n có thể trị chứng đau bụng, v́ chứng tiết tả thường kèm theo đau bụng. Hoàng cầm thanh nhiệt của can đảm, Thược dược b́nh can mộc và hoà âm, v́ chứng tiết tả do nhiệt, v́ thế hai vị thuốc này là chủ dược. Đại táo, cam thảo bổ trung phù trợ chính khí để trị chứng hư tổn sau khi tiết tả. Nếu như ẩu nghịch, vị khí thượng nghịch kèm theo ẩm, gia Bán hạ, Sinh khương trừ ẩm để trị chứng ẩu thổ. Đời sau có một phương gọi là thang Thược dược, “Thược dược trệ hạ tiện nùng huyết” (芍药滞
下便脓血) Thược dược trị chứng trện hạ đại tiện ra máu mủ, trên thực tế là dựa theo thang Hoàng cầm phát triển ra. Một thanh nhiệt, một b́nh can dưỡng âm, trị chứng đau bụng. Thang Hoàng cầm chính là thanh nhiệt của can đảm, trị chứng hạ lỵ nhiệt tính ở can đảm. Chứng hạ lợi khác với chứng đi tả thông thường, v́ là chứng hạ lợi có tính nóng (nhiệt), v́ thế đi ra những chất dính nhờn, đau bụng, giống với chứng kiết lỵ.
173 伤寒胸中有热,胃中有邪气,腹中痛,欲呕吐者,黄连汤主之。C181
173 Thương hàn hung trung hữu nhiệt, vị trung hữu tà khí, phúc trung thống, dục ẩu thổ giả, Hoàng liên thang chủ chi. C181
Phương thang Hoàng liên
Phúc đông ẩu thổ tịch xu năng
Nhị lạng Nhân sâm hạ bán thăng
Can khương Liên Thảo Quế tam lạng
Thập nhị đại táo sao tầng tầng
Hoàng liên Cam thảo nướng Cam khương Quế chi bỏ vỏ. đều 3 lạng Nhân sâm 2 lạng Bán hạ nửa thăng rửa Đại táo 12 quả bổ
Bảy vị trên, dùng 1 đấu nước, nấu c̣n 6 thăng, bỏ bă, uống ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần, đêm uống 2 lần.
Điều này thảo luận về chứng trạng và trị liệu chứng thượng nhiệt hạ hàn (trên nóng dưới lạnh) đau bụng muốn ẩu thổ.
Điều này chú ư hai chữ “hữu”(有), là có trong “hung trung hữu nhiệt”(胸中有热) là trong ngực có nhiệt, “vị trung hữu tà khí” (胃中有邪气) là trong dạ dày có tà khí. Hữu có ư là có từ trước. “Hung trung hữu nhiệt chính là thượng nhiệt”; “Vị trung hữu tà khí, là trong dạ dày, trung tiêu có tà khí”.
Tà khí ǵ? Ở đây nói về khí hàn tà. Là ở trên hữu nhiệt, trung tiêu hữu hàn, bệnh lư như vậy sẽ ảnh hưởng hội chứng, lạnh trong dạ dày, v́ thế đau bụng; Trong ngực có nhiệt, nên “dục ẩu thổ giả”, là buồn nôn nhưng không nôn ra được, v́ thế “dục ẩu thổ”, đây là thượng nhiệt mà trung hàn (trên nóng mà lạnh ở giữa)
Thượng nhiệt trung hàn, đây là t́nh trạng có liên quan đến âm dương thăng giáng không thuận lợi. Nhiệt trong lồng ngực không thể đi xuống, v́ thế nhiệt ở trên mà lạnh ở giữa, phàm những chứng hàn nhiệt đan xen như vậy đều có quan hệ với sự thăng giáng của âm dương.
Đặc điểm của điều này không giống chứng tâm hạ bĩ ngạnh của tỳ vị thăng giáng bất lợi. Điểm khác biệt ở đâu? Một là không có tâm hạ bĩ, hai là có chứng trạng đau bụng. Cho thấy nếu hàn nhiệt (tà) bế tắc vào tâm hạ, nó sẽ gây bế tắc, tâm hạ bĩ tắc, khi tâm hạ bĩ tắc chúng ta sẽ dùng thang tả tâm. Nếu như nhiệt ở trên mà hàn ở dưới gây đau bụng, hàn ngưng tụ ở giữa, mà không gây bế tắc, không bế tắc ở dưới ngực và trên bụng là vị trí bán thượng bán hạ (nửa ở trên nửa ở dưới), nó đă tách rời, nhiệt th́ ở trên, hàn ở trong bụng, ở dưới. Như vậy là đau bụng, nó tuy là bổ tỳ, bụng nhất định sẽ đau.
V́ sao phải đau? V́ lạnh, v́ sao “dục ẩu thổ”? v́ bên trên có nhiệt.
Nhiệt chỉ ở trên mà hàn chỉ ở dưới, chưa cấu thành bệnh cơ bĩ tắc giao thông, nên không gây bĩ. Chứng bĩ theo quan điểm các điều ở trên là do ngộ hạ (hạ nhầm), “bệnh tại âm nhi phản hạ chi, tắc tác bĩ dă” (病在阴而反下之,则作痞也) hạ nhầm gây tổn thương tỳ vị, tóm lại, tỳ vị thụ thương, sau đó thành chứng tâm hạ bĩ. Đây là trong ngực có nhiệt, trong vị có tà khí, đă có từ trước, không thể nói do ngộ hạ, nguồn gốc khác nhau, v́ thế Trương Trọng Cảnh gia thêm hai chữ “hữu”, hữu là tự thân đă có, không do nguyên nhân khác tạo thành.
Như vậy để làm ǵ? “Hoàng liên thang chủ chi” thang Hoàng liên chủ trị bệnh này. Chúng ta thấy bệnh này trên lâm sàng, một phương diện là đại tiện tiết tả, không được đề cập đến trong điều này. “dục ẩu thổ, phúc trung đông” (buồn nôn, đau bụng), cũng có khi đại tiện không điều hoà, một ngày 2,3 lần. V́ thế, nhiệt bệnh ở trên, đại tiện không tốt, chính là có kèm theo tiết tả, tiết tả ở đây không phải là hạ lợi, không phải kiết lỵ, chính là đại tiện không điều hoà, mà buồn nôn, hàn bệnh ở dưới “nhi phúc trung tác thống” . Bán hạ tả tâm thang chứng, Sinh khương tả tâm thang chứng, Cam thảo tả tâm thang chứng đều có tâm hạ bĩ(mà đau bụng), hoặc giả xuất hiện hạ lợi, chính là thượng nhiệt hạ hàn, cũng thuộc về âm dương thăng giáng không điều hoà, nhưng không h́nh thành tâm hạ bĩ, đây chính là một đặc điểm của hoàng liên thang chứng. Hoàng liên tả tâm thang trên thực tế chính là bán hạ tả tâm thang, giảm lượng Hoàng cầm, lại gia thêm vị Quế chi, đồng thời tăng nhẹ lượng Hoàng liên, ư nghĩa của Hoàng liên tả tâm thang không khác nhiều so với thang bán hạ tả tâm.
Tuy phương này lấy tên là Hoàng liên, gọi là thang Hoàng liên, nhưng xét theo thành phần các vị thuốc, nhiệt dược nhiều hơn hàn dược. Thuốc khổ hàn hạ giáng chỉ có một vị Hoàng liên, các vị như Can khương, Quế chi, Bán hạ, Nhân sâm, Đại táo, Chích Cam thảo đều là những vị thuốc tân ôn. Xét như thế, tuy chính là chứng nhiệt thượng hàn hạ, nhưng xét theo trị liệu th́ nặng về ôn dược, tác dụng ôn bổ lại mạnh mẽ hơn. Hoàng cầm và Hoàng liên cùng sử dụng trong thang Tả tâm, để giải trừ chứng hàn nhiệt đan xen nhau, Trong thang Hoàng liên th́ khứ bỏ vị Hoàng cầm, lại gia thêm vị Quế chi, v́ thế tác dụng thông dương khứ hàn mạnh hơn, lực tả nhiệt giảm xuống. Có thể có ư kiến, vậy th́ không dùng Hoàng liên có được không? Không dùng vị Hoàng liên là không được. Cổ nhân có một phương tên là Liên Lư thang, là thang Lư trung gia vị Hoàng liên. Thang Lư liên và thang Lư trung có tác dụng hoàn toàn khác nhau, như chứng đau bụng hạ lợi, xét như là hàn chứng, dùng thang Lư trung không hiệu quả, sau khi dùng thang Lư trung gia Hoàng liên ngay lập tức thu được hiệu quả tốt, và cũng ngừng đi tả, uống thuốc xong thấy cơ thể thoải mái.
V́ sao cần gia thêm vị Quế chi? Can khương và Quế chi, Trương Trọng Cảnh thường phối hợp hai vị này, điển h́nh nhất là thang Sài hồ Quế chi Can khương. Can khương là thủ dược, thủ nhi bất hành (là thuốc pḥng thủ, không lưu thông), có lực bổ rất lớn. Chứng hạ lợi dùng Can khương là thủ dược (thuốc giữ lại), vị Quế chi có thể lưu thông, có tác dụng ấm áp và thông suốt, hai vị thuốc này đều là thuốc có tính nóng (nhiệt dược), một vị có thể giữ lại (thủ dược), một vị có thể lưu thông (hành), một thủ một hành, hàn nhiệt trên dưới có thể giao thông hỗ tương, ư nghĩa này càng rơ rệt hơn. Quế chi có tác dụng ôn thông (ấm áp, thông suốt), ôn thông trên dưới, ôn thông trong ngoài, đồng thời c̣n có tác dụng lư khí (điều chỉnh khí cơ) . Khi lâm sàng, bên trên th́ buồn nôn, bên dưới th́ tiết tả, hàn chứng và nhiệt chứng hỗn tạp, thang Hoàng liên chính là phương thang thích hợp nhất.
174 伤寒八九日,风湿相搏,身体疼烦,不能自转侧,不呕不渴,脉浮虚而涩者,桂枝附子汤主之。C182
174 Thương hàn bát cửu nhật, phong thấp tương bác, thân thể đông phiền, bất năng tự chuyển trắc, bất ẩu bất khát, mạch phù hư nhi sáp giả, Quế chi Phụ tử thang chủ chi. C182
Phương thang Quế chi Phụ tử
Tam Khương nhị Thảo Phụ mai tam
Tứ Quế đông đầu thị chỉ nam
Phương trung Đại táo thập nhị lạp
Thống nan chuyển trắc thử phương tham
Quế chi 4 lạng, bỏ vỏ Phụ tử 3 cái, nướng, bỏ vỏ, đập ra làm 8 miếng sinh khương 3 lạng, thái mỏng Cam thảo 2 lạng, nướng Đại táo 12 quả, bổ ra
% vị thuốc trên, dùng 6 thăng nước, nấu cạn c̣n 2 thăng, bỏ bă, phân thành 3 lần uống lúc thuốc ấm
174 若其人大便硬一云:脐下心下硬,小便自利者,去桂枝加白术汤主之C183
174 Nhược kỳ nhân đại tiện ngạnh nhất vân: Tề hạ tâm hạ ngạnh, tiểu tiện tự lợi giả, khứ Quế chi gia Bạch truật thang chủ chi C183
Đại tiện như ngạnh tiểu tiện thông
Mạch sáp phù hư ôn thắng phong
Tức dụng tiền phương khứ Quế chi
Truật gia tứ lạng hữu thần công
Phương thang Quế chi Phụ tử khứ Quế gia Bạch truật
Phụ tử 3 cái, nướng, bỏ vỏ, đập vỡ Bạch truật 4 lạng Sinh khương 3 lạng, thái mỏng Cam thảo 2 lạng, nướng Đại táo 12 quả, bổ ra
5 vị thuốc trên, dùng 6 thăng nước, nấu cạn c̣n 2 thăng, bỏ bă, chia 3 lần uống khi thuốc c̣n ấm. Uống lần đầu sẽ cảm thấy thân thể như bị tê, người như nóng bừng lên, đừng sợ. Đó là vị Phụ tử, Bạch truật chạy ở dưới da, trục thuỷ khí chưa được trừ khứ nên khiến ra như vậy, phép này gia Quế 4 lạng. Đây là một phương có hai pháp: Với phân cứng, tiểu tiện tự lợi th́ bỏ Quế; Nếu phân không cứng, tiểu tiện bất lợi th́ nên gia Quế. Phụ tử ba cái, sợ cũng là nhiều. Bệnh nhân hư nhược và sản phụ, nên giảm lượng Phụ tử.
175 风湿相搏,骨节烦疼,掣痛,不得屈伸,近之则痛剧,汗出短气,小便不利,恶风不欲去衣,或身微肿者,甘草附子汤主之。C184
175 Phong thấp tương bác, cốt tiết phiền đông, xế thống, bất đắc khuất thân, cận chi tắc thống kịch, hăn xuất đoản khí, tiểu tiện bất lợi, ố phong bất dục khứ y, hoặc thân vi thũng giả, Cam thảo Phụ tử thang chủ chi. C184
Phương thang Cam thảo Phụ tử
Lưỡng Phụ Truật Cam nhị lạng b́nh
Quế chi tứ lạng diệc nhan minh
Phương trung chủ dược suy Cam thảo
Phong thấp đồng khu yếu hoăn hành
Cam thảo 2 lạng, nướng Phụ tử hai cái, nướng, bỏ vỏ đập vỡ Bạch truật 2 lạng Quế chi 4 lạng, bỏ vỏ
Bốn vị thuốc trên, dùng 6 thăng nước, nấu cạn c̣n 3 thăng, bỏ bă, uống 1 thăng thuốc lúc c̣n ấm. Uống lần đầu ra chút mồ hôi là bệnh được giải. Có thể ăn, xuất hăn lại bực bội, nên uống khỏng 5 hợp, sợ rằng uống 1 thăng là quá nhiều, nên uống khoảng 6,7 hợp là vừa phải.
Ba điều trên chính là có liên quan đến các điều của bệnh phong thấp, là chứng tương tự như thương hàn, thuộc phạm vị tạp bệnh, v́ thế trong {Kim Quỹ Yếu Lược} cũng mô tả 3 phương. Ba phương đều trị phong hàn thấp tí, nhưng thang Quế chi Phụ tử được thiêt lập để điều trị chứng phong thấp thiên về biểu; Khứ Quế chi gia Bạch truật là thiết lập để trị chứng phong thấp thiên về phần cơ nhục; Thang Cam thảo Phụ tử được thiết lập dùng để trị chứng phong thấp thiên về khớp xương.
Trường Xuân Ng Nghị
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-12-19 01:42:03
Từ điều 176 đến 180
176 伤寒脉浮滑,此表有热、里有寒,白虎汤主之。C185
176 Thương hàn mạch phù hoạt, thử biểu hữu nhiệt, lư hữu hàn, Bạch hổ thang chủ chi. C185
Phương thang Bạch hổ
Dương minh Bạch hổ biện phi nan
Nan tại dương tà bối ố hàn
Cao cân Tri lục Cam nhị lạng
Cánh mễ lục hợp phục chi an
Tri mẫu 6 lạng Thạch cao 1 cân, giă nát Cam thảo 2 lạng Cánh mễ (gạo tẻ) 6 hợp.
4 vị thuốc trên, dùng 1 đấu nước, nấu chín gạo, thành nước thuốc, bỏ bă, uống 1 thăng nước thuốc âm, ngày uống ba lần.
Điều này thảo luận về mạch chứng và phép trị liệu của kinh dương minh nóng nhiệt mà chưa thành thực chứng. Liên quan với “Biểu hữu nhiệt, lư hữu hàn” (表有热,里有寒) bên ngoài biểu có nhiệt, bên trong lư có hàn, các nhà chú thích có nhiều ư kiến. Kết hợp với thực tiễn lâm sàng, chúng tôi cho rằng sau chữ biểu nên thêm vào chữ “lư” (里), như thế là “Biểu lư hữu nhiệt” (表里有热). Lược bỏ câu “Lư hữu hàn” (里有寒). Toàn câu sẽ thành “ Thương hàn, mạch phù hoạt, thử biểu lư hữu nhiệt, Bạch hổ thang chủ chi” (伤寒,脉浮滑,此表里有热,白虎汤主之。)
Nổi bật là mạch, v́ là mạch phù hoạt, các mạch Đại Phù Sác Động Hoạt đều thuộc mạch dương.
Mạch Phù mà Hoạt, là biểu hiện của dương khí hữu dư, kinh dương minh hữu nhiệt, khí phận hữu nhiệt. Khí phận hữu nhiệt tràn vào biểu lư, biểu lư hữu nhiệt, các chứng trạng miệng khát, tâm phiền, xuất hăn cũng chính là tự tại ngôn ngoại (những chứng trạng hiểu ngầm). Nếu như khí không bị tổn thương, chỉ tổn thương tân dịch, việc dùng thang Bạch hổ là có thể, không cần gia Nhân sâm.
Thang Bạch hổ gồm bốn vị: Tri mẫu, Thạch cao, Cánh mễ, chích Cam thảo. Tri mẫu vị đắng nhẹ, rất tư nhuận (ẩm ướt), có thể bổ dưỡng tân dịch, c̣n có thể có tác dụng dưỡng thận âm, phế âm và vị âm, đối với âm phận của ba tạng khí (Phế, Thận, Vị) Tri mẫu đều có thể bổ dưỡng, Bạch hổ thang chứng gồm miệng khô, đắng, v́ nhiệt tổn thương đến âm phận, v́ thế cần dùng Tri mẫu. Tri mẫu có thể thanh nhiệt, v́ có vị đắng mà tư nhuận (ẩm ướt), lại có thể nuôi dưỡng tân dịch, v́ thế vị thuốc Tri mẫu là vị rất quan trọng trong thang Bạch hổ. V́ sao thang Bạch hổ không dùng Mạch đông, Thiên hoa phấn, Thạch hộc, Ngọc trúc, nhưng lại dùng Tri mẫu? Chúng ta cứ tiếp tục suy nghĩ, đợi đến lúc chúng ta thảo luận thang Trúc diệp Thạch cao, thang này dùng Mạch đông mà không dùng Tri mẫu. V́ Tri mẫu không những sinh tân dịch, mà c̣n có tác dụng thanh nhiệt, mà những vị thuốc này(Mạch đông, Thiên hoa phấn, Thạch hộc, Ngọc trúc) thường nói phù tŕ tân dịch, nuôi dưỡng tân dịch, phù trợ chính khí th́ có thừa, nhưng năng lực thanh nhiệt th́ không đủ. Tri mẫu có thể khứ tà cũng có thể nuôi dưỡng chính khí, có thể dưỡng âm tinh cho Phế, Vị và Thận. V́ sao lại gọi nó là Tri mẫu? Chính là biết Phế âm chính là mẹ (mẫu) của Thận thuỷ.
Mẫu, kim thuỷ tương sinh. V́ thế vị thuốc này (Tri mẫu) có thể nuôi dưỡng thận âm, nuôi dưỡng Phế âm. Thạch cao là vị thuốc tân hàn (cay lạnh), Thành Vô Kỷ cho là cam hàn (ngọt lạnh).Thạch cao thanh nhiệt, là thang thuốc đại hàn (rất lạnh), có thể thanh nhiệt ở khí phận, nhiệt của Phế Vị, v́ thế vị thuốc này có thể sinh âm, có thể thanh nhiệt, trừ khứ nhiệt rồi th́ tân dịch không bị tiêu háo.
Thạch cao là thuốc thanh nhiệt, là vị thuốc có tính hàn, có thể thanh nhiệt ở Phế Vị, lại có thể thanh nhiệt của vệ khí, v́ thế Thạch cao là vị thuốc phi thường trọng yếu, trị thương hàn, trị ôn bệnh. Một cuốn y thư có tên {Dịch chẩn nhất đắc}, trong sách này dùng vị Thạch cao, dùng đến 1 cân, hai cân, ba cân, đây là số nhân, không phải chỉ dùng 2 cân, v́ sao? Là có một loại dịch chứng, đặc biệt nóng, không dùng Thạch cao th́ không thể.
Nhưng thuốc này không thể ở ngoài những nghiên cứu y học hiện đại, nên dù có thử nghiệm cũng không thể kiểm tra được thạch cao. Tên của thạch cao là ǵ? Nó được gọi là canxi.
Thạch cao và Tri mẫu vừa có tác dụng thanh nhiệt lại sinh tân dịch, đây chính là những vị thuốc chủ yếu, dựa theo ư nghĩa của thang Bạch hổ mà nói, Tri mẫu chiếm vị trí thứ nhất, Thạch cao ở vị trí thứ hai. Các vị thuốc rất mát, lại ngại tỳ vị bị ảnh hưởng, v́ thế gia thêm Cam thảo nướng, có tác dụng cam ôn, gia thêm Cánh mễ. Mễ (gạo) đứng đầu ngũ cốc, có tác dụng bổ trung ích khí, một là thêm vị ngũ cốc để bồi bổ nguồn hậu thiên tỳ vị, đồng thời hạn chế hàn tính của Thạch cao và Tri mẫu.
177伤寒脉结代,心动悸,炙甘草汤主之。C186
177 Thương hàn mạch kết đại, tâm động quư, chích Cam thảo thang chủ chi. C186
Phương thang Chích Cam thảo
Kết đại mạch tu tứ lạng cam
Táo mai tam thập Quế Khương tam
Bán Thăng ma Mạch nhất cân Địa
Nhị lạng Sâm Giao tửu thuỷ hàm
Cam thảo 4 lạng, nướng Gừng tươi 3 lạng, thái mỏng Quế chi 3 lạng, bỏ vỏ Nhân sâm 2 lạng Sinh địa hoàng 1 cân A giao 2 lạng Mạch môn đông nửa thăng, bỏ lơi Ma tử nhân nửa thăng Đại táo 12 quả, bổ ra
Chín vị thuốc trên, dùng 7 thăng rượu trong, 8 thăng nước, đầu tiên nấu 8 vị, nấu c̣n 3 thăng, bỏ bă, cho A giao vào đến khi tan hết, uống ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần, thang này có tên là thang Phục mạch.
Điều này tŕnh bày hội chứng và phương pháp điều trị chứng bệnh tà ở kinh Thái dương truyền vào kinh Thiếu âm mà âm dương đều bị hư tổn.
Mạch kết đại có liên hệ với tâm động quư (tim đập nhanh hồi hộp), v́ tâm chủ huyết mạch, nhưng người bệnh không biết tim đập nhanh, đây là hiện tượng b́nh thường. Vấn đề hiện tại là, bệnh nhân cảm thấy tim đập, tim đập có nhẹ có nặng, ở đây là tim đập mạnh, gọi là “tâm động quư” (心动悸), thêm chữ “động” , là tim đập không b́nh thường. Ở những phần trước có đề cập đến “tâm động quư” không? Chỉ có tâm quư thôi, “phát hăn hậu, tâm hạ quư, Quế chi Cam thảo thang chủ chi” (发汗后,心下悸,桂枝甘草汤主之). “Thương hàn, tâm phiền quư, Tiểu kiến trung thang chủ chi” (伤寒,心烦悸,小建中汤主之), không có chữ “động”, hiện tại có thêm chữ “động” có h́nh ảnh của bệnh ở kinh Quyết âm, “khí thượng chàng tâm”(气上撞心) (chàng= va chạm) gia thêm chữ “chàng” (撞), hiện tại gia thêm chữ “động”, như vậy “ngôn kỳ thậm dă” (thậm là rất, lắm). Đây được gọi là trạng thái bệnh tật nặng hơn, hiện nay chứng trạng này y học hiện đại gọi là rối loạn nhịp tim, nhịp đập sớm, cơn co thắt ngoài chu kỳ và rối loạn nhịp tim.
V́ tim đập không đều, nên xuất hiện mạch kết đại, mạch kết và mạch đại là hai loại mạch, đều có nhịp ngưng lại, đang đập ngừng lại một cái, sau đó lại tiếp tục đập, điều này có liên hệ và phù hợp với chứng tâm động quư. Rối loạn nhịp tim thể hiện ở mạch, thấy mạch kết đại, mạch kết, mạch đại đều là mạch âm, mạch đến, chậm, tên là mạch kết.
Mạch ngừng một nhịp, tiếp tục đập trở lại, đây gọi là mạch kết. Không thể đập lại, tim đang đập, ngừng lại một lát sau mới đập tiếp, đập trở lại rồi và đập rất nhanh th́ gọi là mạch đại. Là phản ảnh của khí huyết hư suy ở tạng tâm.
Tạng tâm là đại chủ (ông chủ lớn) của ngũ tạng lục phủ, khi tim hư yếu th́ mạch kết đại, đây không phải là chuyện tầm thường. Đây là tà khí và chính khí của tạng tâm đă phát sinh quan hệ. Lúc này chính khí hư tổn là chính, tà khí chỉ là phụ, v́ thế “Thương hàn, mạch kết đại, chích Cam thảo thang chủ chi” (伤寒,脉结代,炙甘草汤主之) Bất luận chứng thương hàn c̣n có những vấn đề khác, cũng chỉ là phụ, chủ yếu là vấn đề của tạng tâm, cần tích cực phù trợ chính khí, cần điều chỉnh huyết mạch, cần bổ ích khí huyết, để nhịp tim khôi phục b́nh thường, v́ thế nên dùng thang Chích Cam thảo. Thang Chích Cam thảo là phương thang có một số vị thuốc ngọt, vị ngọt có tác dụng bổ trung ích khí
V́ sao cần bổ trung ích khí? V́ khí huyết sinh ở trung tiêu, tỳ vị là nguồn của khí huyết. Khí huyết ở trung tiêu đầy đủ, huyết được nuôi dưỡng và đầy đủ trong mạch. Trong phương c̣n có Sinh địa hoàng, Mạch đông, A giao, Ma tử nhân nhuận táo thêm tân dịch bổ huyết, khiến cho huyết dịch được bổ sung, huyết dịch có thể nuôi dưỡng tạng tâm, khí huyết đều có, nhưng thuộc âm, âm không được dương hoá, v́ thế cần gia thêm nột số dương dược, gia thêm Quế chi, Sinh khương, c̣n có rượu, khi nấu thuốc gia thêm rượu để thúc đẩy huyết mạch, khiến huyết mạch thông lợi, khiến A giao, Sinh địa, Mạch đông không phát sinh niêm trệ. Như vậy chính là có lợi cho tạng tâm và huyết mạch. Sau khi uống thuốc, có thể khôi phục mạch b́nh thường, cho nên thang Chích Cam thảo c̣n có tên là thang Phục mạch.
Tóm lại, đặc điểm của thang Chích Cam thảo là nuôi dưỡng âm, nuôi âm chính là bổ huyết, c̣n có thể bổ khí, dưỡng tâm, có thể thông lợi huyết mạch. Thế nào gọi là thông lợi huyết mạch?
Căn cứ nội dung của {Danh y biệt lục}, vị Cam thảo có nhiều khả năng thông mạch, lợi khí huyết. Dược học cận đại phát hiện trong vị Cam thảo có một loại vật chất gọi là Cam thảo Cam (Giu cô xít), có tác dụng giúp tạng tâm mạnh mẽ, nói như vậy là biết tại sao phương thang này có tên là thang Chích Cam thảo, chích Cam thảo có tác dụng trị liệu chủ yếu đối với “Tâm động quư, mạch kết đại, chích cam thảo thang chủ chi” (伤寒,脉结代,炙甘草汤主之). Thương hàn, mạch kết đại, thang chích cam thảo chủ trị bệnh này
Theo hiểu biết của người viết, phương này cũng có những hạn chế nhất định, khi sử dụng thang chích Cam thảo nên chú ư một số vấn đề. Một là uống nhiều thang chích Cam thảo sẽ gây phù thũng ở chân và mặt, hai là uống nhiều sẽ bị tiêu chảy, tại sao như vậy? Tuy trong phương có thanh tửu (rượu), Sinh khương, Quế chi, nhưng chính là có nhiều vị thuốc bổ âm, chúng cùng xem lại phương thang: Cam thảo 4 lạng, nướng Gừng tươi 3 lạng, thái mỏng Quế chi 3 lạng, bỏ vỏ Nhân sâm 2 lạng Sinh địa hoàng 1 cân A giao 2 lạng Mạch môn đông nửa thăng Ma tử nhân nửa thăng Đại táo 12 quả, bổ ra, trong phương này có rất nhiều vị thuốc tư nhuận, uống nhiều sẽ xuất hiện chứng phù thũng. Trước đây người viết không nhận ra vấn đề này, có một bệnh nhân bị thấp tim, dùng thang Chích Cam thảo thấy có tác dụng rất tốt, liền đem toa thuốc về uống, tuy tốt cho tim mạch nhưng chân và mặt bị sưng. Sau đó không chỉ riêng trường hợp này, một số trường hợp bệnh tim khác như viêm cơ tim, mạch kết đại, trung y khám thuộc về khí huyết hư, huyết mạch bất túc, dùng thang chích Cam thảo, sau khi dùng một thời gian th́ đều xuất hiện phù thũng, đi tả.
Ngoài ra, căn cứ theo nhận định của người viết, “Mạch kết đại, tâm động quư”gia thêm Ngũ vị tử sẽ có hiệu quả tốt hơn. Gia Nhân sâm, Mạch đông, Ngũ vị tử sẽ thành thang Sinh mạch tán trong {Thiên Kim Yếu Phương} của Tôn Tư Mạc. Theo ư của Kha Cầm là bỏ Ma tử nhân, gia thêm Toan Táo nhân, theo ông ta gia thêm Toan Táo nhân hiệu quả sẽ tốt hơn.
V́ sao gọi là thanh tửu? Thời nhà Hán không có Bạch can tửu, tất cả là rượu gạo (mễ tửu), rượu được làm từ nếp, từ xưa đă phân thành hai loại là rượu gạo trắng, gọi là thanh tửu (rượu trong). Một loại là Hoàng mễ tửu gọi là trọc tửu (rượu đục).
Bệnh ở kinh Thái dương khởi đầu từ “Thái dương chi vi bệnh” cuối cùng đến thương hàn mạch kết đại, tâm động quư, thang chích Cam thảo, bệnh ở kinh Thủ thiếu âm tâm tạng là kết thúc, lư do là ǵ? V́ Thái dương và Thiếu dương là biểu lư; Kinh Thiếu âm, một là thận, một là tâm, túc thiếu âm thận, thủ thiếu âm tâm. Bệnh ở kinh Thái dương bắt đầu phát bệnh là phát nhiệt sợ lạnh, bắt đầu đề kháng, là tà khí uất ở biểu, cuối cùng kết thúc với t́nh trạng hư suy của thủ thiếu âm tạng tâm, bệnh theo tà khí bắt đầu, đến khi chính khí hư suy, kinh Thái dương và kinh Thiếu âm có quan hệ biểu lư, có liên hệ nội tại là như vậy.
Đồng thời Thái dương bệnh có thể dụ phát một số bệnh ở kinh Thiếu âm, dương khí hư suy của kinh Túc thiếu âm và khí huyết hư suy của kinh Thủ thiếu âm, một là Tứ nghịch thang chứng, một là chích Cam thảo thang chứng. Tổng kết như vậy để dễ hiểu hơn.
178 脉按之来缓,而时一止复来者,名曰结。又脉来动而中止,更来小数,中有还者反动,名曰结阴也;脉来动而中止,不能自还,因而复动,名曰代阴也。得此脉者,必难治。C187
178 Mạch án chi lai hoăn, nhi thời nhất chỉ phục lai giả, danh viết kết. Hựu mạch lai động nhi trung chỉ, canh lai tiểu sác, trung hữu hoàn giả phản động, danh viết kết âm dă; Mạch lai động nhi trung chỉ, bất năng tự hoàn, nhân nhi phục động, danh viết đại âm dă. Đắc thử mạch giả, tất nan trị. C187
Điều này thảo luận về đặc điểm của mạch kết đại, đồng thời tiên lượng phán đoán tật bệnh.
Mạch kết và mạch đại đều thuộc âm mạch, chủ về tạng khí hư suy, chính khí suy yếu, nếu như thấy hai mạch này, bệnh thường khó điều trị. V́ thế có câu “Đắc thử mạch giả, tất nan trị” (得此脉者,必难治) Gặp mạch này tất khó điều trị.
Bây giờ sẽ làm một bản tóm tắt cho thiên Thái dương hạ thiên. Hạ thiên có 52 điều, chủ yếu nói về các nội dung sau: Nội dung thứ nhất là chứng kết hung và các chứng tương tự; Nội dung thứ hai giảng về chứng tâm hạ bĩ và các chứng tương tự; Nội dung thứ ba là âm dương kết ở trong, nhiệt tà tràn đầy biểu lư, khí âm dương cùng bị tổn thương của Bạch hổ thang gia Nhân sâm chứng và chứng cấm kỵ của nó (Bạch hổ thang), sau đó lại thảo luận về hai kinh Thái dương và Thiếu dương cùng bệnh (tịnh bệnh), trị pháp của Thái dương Thiếu dương hợp bệnh và Hoàng cầm thang chứng đến chứng thượng nhiệt hạ hàn của Hoàng liên thang chứng. Nội dung thứ tư là giảng về các chứng tương tự thương hàn, hàn thấp tí thống, điều này lưu ở {Kim Quỹ Yếu Lược}. Cuối cùng là Thiếu âm bệnh tâm động quư, mạch kết đại để kết thúc toàn thiên, khởi đầu ở kinh Thái dương và kết thúc ở kinh Thiếu âm, từ dương đến âm, chính là ư nghĩa này.
Phân biệt mạch, chứng và điều trị bệnh của kinh Dương minh
[Tóm tắt]
Tóm tắt về bệnh của kinh Dương minh bao gồm sinh lư, bệnh lư, nguyên nhân bệnh, chứng trạng và quan hệ biểu lư của chúng.
Dương minh về mặt sinh lư là chỉ về túc dương minh vị và thủ dương minh đại tràng, đây gọi là vị trí bệnh; Bệnh lư chính là nơi chốn, tại vị (dạ dày) và ruột già (Đại tràng). Dương minh gọi là lưỡng dương (hai dương) hợp minh, lưỡng dương là Thái dương và Thiếu dương, ở giữa (trung gian) là Dương minh. Minh là ǵ? Minh có nghĩa là dương khí rất hưng thịnh, dương khí rất mạnh. Thái dương gọi là Cự dương (dương to lớn), “Ngôn kỳ đại dă” (言其大也) là nói đến sự to lớn, khí Thái dương bảo vệ chu thân, diện tích rất lớn; Dương minh “Ngôn kỳ cường dă” (言其强也) là nói về sự mạnh mẽ
minh chính là hưng thịnh nhất, gọi là lưỡng dương hợp minh, nó xen vào giữa Thái dương và Thiếu dương, với dương khí thịnh vượng nhất của nó.
Về mặt sinh lư kinh Dương minh là kinh mạch nhiều khí huyết. Dương minh thuộc vị (dạ dày), vị là nơi chứa thuỷ cốc (nước, thực phẩm), v́ thế nó là kinh mạch nhiều khí huyết, có năng lực đề kháng ngoại tà khá tích cực, khá mạnh. V́ thế tà nhiệt từ kinh Thái dương (biểu) đến được kinh Dương minh, Dương minh thuộc tràng vị (ruột, dạ dày), tràng vị thuộc lư (bên trong), v́ thế ở bát cương gọi là lư chứng. Bệnh tà vào đến bên trong, liền đấu tranh với Dương minh, khí dương minh sẽ đề kháng bệnh tà, thể hiện trạng thái phấn khích, tích cực, tiến lên. Cho nên khi chính tà đấu tranh là có lợi, theo đặc điểm này th́ đây là giai đoạn sau của bệnh ngoại cảm nhiệt tính, Thái dương là bắt đầu đề kháng, đến kinh dương minh th́ sức đề kháng mạnh mẽ.
Nguyên nhân h́nh thành dương minh bệnh có hai phương diện, một là nguyên phát và một là kế phát. Dương minh bệnh nguyên phát thuộc tà tại kinh dương minh không được giải trừ. Do kinh và phủ tạo thành Dương minh bệnh, là bản thân tà khí của kinh dương minh truyền đến phủ của bản thân nó, hoặc trong dạ dày có một số thực phẩm qua đêm, có một số ngưng kết, không trải qua ảnh hưởng của các kinh khác, mà thuộc kinh lạc gốc để gây bệnh. Dương minh bệnh kế phát, thường là biểu tà Thái dương không giải trừ mà truyền vào Dương minh, hoặc là từ giai đoạn Thái dương hoặc Thiếu dương bệnh do phát hăn, thổ hạ tổn thương tân dịch trong vị, tân dịch khô táo mà tục phát (phát nối tiếp) dương minh bệnh.
Dương minh bệnh kế phát có hai h́nh thức, một là tà truyền kinh, một loại là tổn thương tân dịch ở vị, trong vị khô táo, như vậy tà khí liền truyền vào kinh dương minh. Thái dương bệnh đối với việc phát hăn cần phải rất cẩn thận, nguyên nhân là nếu phát hăn không đúng, không vong dương th́ cũng tổn thương âm, khi tân dịch bị tổn thương th́ bệnh tà dễ dàng xâm nhập kinh dương minh. Dương minh bệnh chủ yếu là chứng lư thực, biện chứng bát cương là lư lại là thực, lư là vị trí của bệnh, thực là tính chất của bệnh.
Tại sao biến thành thực chứng? V́ dương minh chính là táo nhiệt kết ở trong, dương minh là dương khí hưng thịnh, dương nhiệt hữu dư (có thừa), v́ thế loại nhiệt này không phải nhiệt b́nh thường, loại nhiệt này gây tổn hại cho tân dịch rất nhiều, v́ thế gọi là táo nhiệt. Nhiệt của dương minh và nhiệt của Thiếu dương khác nhau, gọi là táo nhiệt, táo nhiệt sẽ kết lại ở trong, phân, cặn bă không thải ra ngoài, mà ngưng tụ lại. Khô và nhiệt ngưng tụ, đại tiện không thể thải ra bên ngoài, khí ở phủ không thông, lục phủ dĩ thông vi thuận (lục phủ cần cần phải thông là thuận lợi), v́ thế sẽ h́nh thành tràng thực mà vị măn. Như vậy là phản ứng móc xích của bệnh lư, cổ nhân tổng kết là bĩ, măn, táo, kết, thực là h́nh thành chứng bĩ măn ở bụng.
Chứng táo kết trong ruột đă h́nh thành biến hoá bệnh lư thực chứng của Dương minh , tại sao gọi là thực? thực là có vật chất. Bệnh ở lục phủ, bệnh ở ruột và dạ dày, như vậy phản ảnh bệnh lư ở bên trong xuất hiện đại tiện táo kết, đầy bụng, đau không thích ấn nắn, phản ảnh ở bên ngoài là thân thể nóng, xuất hăn, không sợ lạnh, lại sợ nóng. V́ đây là chứng táo thực, như vậy khí của Dương minh cũng mạnh, dương khí hữu dư, tà khí cũng hữu dư (có thừa), đại tiện cũng không bài tiết, v́ thế sẽ nóng hầm hập, xuất hăn liên tục, không sợ lạnh. Lư thực chứng không phải là biểu chứng, nên không sợ lạnh, đây chính là hội chứng chủ yếu của bệnh ở kinh dương minh.
Kinh dương minh và kinh Thái âm có tương quan biểu lư, tạng phủ, âm dương, nội ngoại chính là biểu lư, v́ thế tỳ và vị là liên hệ hỗ tương, loại liên hệ này thông qua kinh lạc.
Trong quá tŕnh bệnh, nếu như nhiệt của dương minh bị thấp tà của Thái âm lấn át, V́ thế sẽ không hoá táo (khô ráo). Dương minh thuộc táo nhiệt, táo nhiệt sẽ gây tổn thương tân dịch, có các chứng như xuất hăn, tiểu tiện nhiều lần. Nếu như nhiệt của Dương minh và thấp của Thái âm kết hợp hỗ tương, nhiệt của nó sẽ bị ngăn trở, sẽ không thể gây tổn thương cho âm dịch, biến thành bệnh thấp nhiệt. V́ thế, thấp nhiệt uất chưng trong nhiệt của dương minh không vượt ra ngoài thành mồ hôi, thấp lại không thể xuống dưới thành tiểu tiện mà xuất ra ngoài, v́ thế người bệnh trên đầu xuất mồ hôi, mà thân thể th́ không xuất mồ hôi, tiểu tiện bất lợi, thấp nhiệt kết vào nhau thành chứng hoàng đản, ảnh hưởng bài tiết của đảm dịch, sẽ phát sinh bệnh hoàng đản, điều này cho thấy sự quan hệ giữa Dương minh và Thái âm.
Bệnh ở kinh dương minh ngoại trừ phủ chứng, c̣n có kinh chứng. Dương minh có kinh, bên trong gọi là phủ, mặt ngoài gọi là kinh, chúng có kinh chứng, có nhiệt chứng, c̣n có hàn chứng, có hư chứng, Chính là Dương minh bệnh bao gồm phủ chứng, âm chứng, hàn chứng, nhiệt chứng, hư chứng. Nhưng điểm chính yếu của biện chứng với phủ thực là chủ của **“vị gia thực” là yêu cầu trọng điểm của biện chứng, với Dương minh là vấn đề chủ yếu. V́ thế đề cương của thiên Dương minh chính là “Vị gia thực”, đề xuất “Dương minh chi vi bệnh, vị gia thực dă”. Chính là Dương minh bệnh tuy có nhiều loại biến hoá, nhưng chủ yếu là “Vị gia thực” là chủ, với phủ chứng là chủ.
Phương pháp điều trị của dương minh bệnh, v́ hội chứng của nó đa dạng, cho nên khá phức tạp. Có thanh pháp, ôn pháp, hăn pháp, hạ pháp, nhưng cũng có trọng điểm, trọng điểm này chính là thích ứng với chứng của nó, chứng của dương minh bệnh với chủ yếu là “vị gia thực”, v́ thế phương pháp trị liệu của nó chủ yếu là tả hạ, v́ thế có ba thang Thừa khí là Đại thừa khí, Tiểu thừa khí và Điều vị thừa khí.
179 问曰:病有太阳阳明,有正阳阳明,有少
阳阳明,何谓也?答曰:太阳阳明者,脾约是也。
C188
179 正阳阳明者,胃家实是也。C189
179 少阳阳明者,发汗,利小便已,胃中燥烦实,大便难是也。C190

179 Vấn viết: Bệnh hữu Thái dương Dương minh, hữu chính dương Dương minh, hữu Thiếu dương Dương minh, hà vị dă? Đáp viết: Thái dương Dương minh giả, tỳ ước thị dă. C188

179 Chính dương Dương minh giả, vị gia thực thị dă.
C189

179 Thiếu dương Dương minh giả, phát hăn, lợi tiểu tiện dĩ, vị trung táo phiền thực, đại tiện nan thị dă. C190
Đây là 3 điều tŕnh bày về nguyên nhân, bệnh lư và mạch chứng của bệnh ở kinh Dương minh.
Bệnh ở kinh dương minh là lư chứng, biểu hiện chủ yếu là đại tiện bí kết. Đây là vấn đề nổi trội, Dương minh là lư chứng, thực chứng, chứng trạng cụ thể phản ảnh chứng lư thực chính là phân không xuống. Đây là vấn đề chung, lại phân thành các mực độ khác nhau, đồng thời liên quan đến nguyên nhân của nó. V́ thế, điều này sẽ giải quyết 3 vấn đề, thứ nhất là bệnh ở kinh dương minh đại tiện (phân) không xuống, thứ hai là có các mực độ khác nhau. Vấn đề thứ ba là bệnh c̣n có các nguồn gốc khác nhau, “Bệnh hữu Thái dương Dương minh, hữu chính dương Dương minh, hữu Thiếu dương Dương minh” (病有太阳阳明,有正阳阳明,有少阳阳明).
“Thái dương Dương minh giả, tỳ ước thị dă”. Vấn đề thứ nhất nói về tỳ ước, là biểu chứng của kinh Thái dương, Dương minh là phân không xuống, là tại bệnh tại kinh Thái dương khi đau đầu, phát nhiệt sợ lạnh, người bệnh đă h́nh thành chứng đại tiện bí kết. Bạn gọi căn bệnh này là ǵ? Trương Trọng Cảnh nói đây là Thái dương Dương Minh, tại sao thời gian của Thái dương mà xuất hiện Dương minh? Đó chính là chứng tỳ ước, v́ người này bị bệnh tỳ ước (ràng buộc), tỳ ước là tên một hội chứng, Trương Trọng Cảnh đối với ngũ tạng đều có tên bệnh, tỳ gọi là tỳ ước, thận có thận trước, can gọi là can trước, phế có phế ung, phế nuy, chỉ tạng tâm là không có tên, các tạng khác đều có tên.
Tại sao gọi là Tỳ ước? Là trong vị (dạ dày) vốn khô ráo, v́ dạ dày quá táo nhiệt, nên tỳ âm bị hạn chế, bị táo nhiệt quá mạnh của vị hạn chế. Sự hạn chế của tỳ có hai ư, một là hạn chế; Một là kiệm ước (tiết kiệm); Hiện tại chúng ta nói về tiết kiệm, chính là không nên lăng phí, cần phải tiết kiệm. Tỳ và Vị có tương quan biểu lư, Dương minh thuộc dương, Tỳ thuộc Thái âm, hiện tại Vị vốn táo nhiệt mạnh, cho nên âm phận của Tỳ, Tỳ là tân dịch của cơ thể lưu động trong Vị (dạ dày), bị táo nhiệt của Vị kiềm chế, đồng thời cũng bị táo nhiệt của Vị bức bách, v́ thế tân dịch của người này không thể trở về trong Vị, tràng vị liền bị khô khan. Thứ hai là táo nhiệt của tràng vị bức bách tân dịch thấm xuống dưới, người này tiểu tiện nhiều, lúc này lại tiểu tiện nhiều hơn. H́nh thành t́nh trạng đă khô khan lại càng khô khan, tân dịch đă thấm (xuống) lại càng thấm, đại tiện càng không giải được, tiểu tiện lại càng nhiều, đây chính là âm dương trên cơ thể không điều hoà. Âm dương tự hoà tất bệnh tự khỏi, hiện tại âm dương là đối lập, đây gọi là tỳ ước.
Biểu hiện trên chứng trạng là đại tiện thường xuyên bị khô, nói theo hiện tại chính là táo bón có tính tập quán. Người này đại tiện rất khó khăn, 5,6 ngày một lần đại tiện, mỗi lần đại tiện toàn thân xuất hăn, rất khó khăn, phí lực rất nhiều, phân thường nhỏ và cứng. Cứng đến mức nào? Rất cứng v́ táo nhiệt trong tràng vị cộng thêm không có tân dịch nên phân rất khô cứng. Vấn đề này có nguốn gốc từ bệnh Tỳ ước, anh ta bị cảm mạo, đă bị Thái dương bệnh, phát sốt, dương khí và tân dịch đều bị ảnh hưởng, v́ thế bệnh Tỳ ước tăng nặng. “Chính dương Dương minh giả, vị gia thực thị dă” (正阳阳明者,胃家实是也。). Chính dương Dương minh là Dương minh của Dương minh, tại sao lại gọi là Dương minh của Dương minh? Bệnh này không phải chứng Tỳ ước của Thái dương, cũng không phải do bệnh ở kinh Thiếu dương mà phát hăn, lợi tiểu gây ra, chính là do bản thân kinh Dương minh tạo thành vị gia thực, v́ thế goi là chính dương Dương minh, chữ chính này để loại trừ Thái dương Dương minh và Thiếu dương Dương minh. V́ thế chính dương Dương minh có hai loại, một loại do Thành Vô Kỷ chú giải, bệnh tà đến kinh Dương minh, truyền đến Dương minh phủ, gọi là chính dương Dương minh, do bệnh tà của bản kinh truyền đến phủ của bản kinh. Ngoài ra, có người trong dạ dày khô táo, hoặc do ăn uống, thực phẩm qua đêm hoá nhiệt thành táo. Từ kinh nhập vào phủ cũng được, hoặc trong phủ có táo nhiệt cũng được, phàm không có quan hệ truyền kinh với Thái dương, Thiếu dương, đều được gọi là chính dương Dương minh. Chính dương của Dương minh, chính là vị gia thực, biến hoá bệnh lư của nó chính là vji gia thực. Tại sao lại gọi là vị gia thực? Chứng lư thực có các mực độ khác nhau, chứng tỳ ước là một, đại tiện khó khăn là một, vị gia thực so sánh với tỳ ước, đại tiện khó khăn đều nghiêm trọng hơn. Phân đă khô, phân đă cứng, chính là một chủ chứng của thang Đại thừa khí, gọi là Vị gia thực. Chúng ta sẽ tiếp tục thảo luận vấn đề này ở phần dưới, v́ phần dưới c̣n có “Dương minh chi vi bệnh, vị gia thực thị dă.” “Thiếu dương Dương minh giả, phát hăn lợi tiểu tiện dĩ, vị trung táo”, “phiền thực” là hai từ không cần, là hai chữ thừa. “Vị trung táo, đại tiện nan thị dă”. Thiếu dương Dương minh bệnh là do bệnh ở kinh Thiếu dương tạo thành bệnh ở kinh Dương minh, tại sao tạo thành bệnh? Là vị trung táo (khô trong dạ dày), bệnh ở kinh Thiếu dương nên dùng thang Tiểu sài hồ để hoà giải, sau khi sử dụng sai lầm phép phát hăn và lợi tiểu gây tổn thương tân dịch nên trong dạ dày khô khan. Khi dạ dày đă khô khan th́ đại tiện sẽ khó khăn, như vậy sẽ tạo thành bệnh ở kinh Dương minh.
180 阳明之为病,胃家实是也。C191
180 Dương minh chi vi bệnh, vị gia thực thị dă. C191
Bài này để phân biệt đề cương của Dương minh bệnh.
Bệnh dạ dày của Dương minh là Vị gia thực, phép nêu đề cương của thiên Dương minh khác biệt với năm kinh c̣n lại. Năm kinh c̣n lại đề cập đến hội chứng và mạch chứng, Dương minh bệnh th́ đề cập đến bệnh lư biến hoá.“Thái dương chi vi bệnh, mạch phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn.” (太阳之为病,脉浮,头项强痛而恶寒。) Trong đề cương có mạch, có chứng. “Dương minh chi vi bệnh, vị gia thực” (阳明之为病,胃家实), không đề cập đến mạch cũng không nói đến chứng, nói đến một cái thực, một cái vị gia thực, vị gia thực là biến hoá bệnh lư, Ở đây có ư nghĩa như thế nào? Trương Trọng Cảnh là người viết sách tiền hậu bất nhất? Trương Trọng Cảnh dùng Mạch và Chứng làm đề cương, kêu gọi mọi người thông qua mạch chứng để t́m hiểu biến hoá của bệnh.
Dương minh chi vi bệnh, vị gia thực, Dương minh là Túc dương minh vị, thủ dương minh đại tràng, v́ nó bao gồm cả hai kinh thủ túc, gọi là vị gia, vị gia là vị và đại tràng. Lục kinh của {Thương hàn luận} giảng về tạng phủ kinh lạc, vị gia chẳng phải là dạ dày và ruột sao, đây chính là 2 phủ trong 6 phủ. Khi nói đến cương lĩnh như vậy, người đọc sẽ hiểu bệnh này ở dạ dày và ruột. “Thực” tuy chỉ là một từ, nhưng nó là mấu chốt rất quan trọng, chính là nói về bệnh lư. Theo hiểu biết của người viết, Trương Trọng Cảnh muốn chúng ta thông qua mạch chứng để hiểu bệnh lư, cũng thông qua bệnh lư để hiểu mạch chứng. V́ thế đề xuất một từ “thực”, vị gia thực, thực chính là một tính chất của bệnh, vị gia là vị trí bệnh, thực là tính chất của bệnh là thực chứng. V́ sao tạo thành thực chứng? Đây là vấn đề lư luận, thông qua nguyên lư của bệnh, khiến người ta nắm được “thực chứng” khi biện chứng, “Thực” chính là một trọng điểm của biện chứng, biện Dương minh bệnh nếu biện xuất là thực chứng, là đạt được mục đích và yêu cầu của biện chứng. V́ thế đây là bài văn giảng về bệnh ở kinh Dương minh, trọng điểm của Dương minh bệnh là vị gia thực, cần phải phân biện ra được là thực chứng, xác định không nghi ngờ th́ mới đạt được mục đích của biện chứng. V́ thế cần phải dùng mọi biện pháp, thiên phương bách kế, làm đi làm lại, là để t́m được cái ǵ là thực, cái ǵ không là thực, thực đến mực độ nào? Đó chính là tinh thần của biện chứng.
Thực là đối với hư mà nói. Lục phủ với thông là thuận, lục phủ truyền hoá vật và không giữ lại, điều đó chính là đường đi của dương, thực phẩm thuỷ cốc vào vị (dạ dày), vị phụ trợ thuỷ cốc đi xuống dưới, thuỷ cốc vào vị, khi đó vị là thực; Đợi sau khi thuỷ cốc được làm chín, thuỷ cốc đi xuống dưới, khi đó là tràng thực mà vị hư. Lúc bắt đầu là vị thực tràng hư, khi ăn uống, thực phẩm vào vị, không vào tràng, vị chính là thực, tràng chính là hư, hư thực chính là nói một cách tương đối; Đến khi trải qua tiêu hoá, sau khi thực phẩm chín nhừ, thực vật xuống dưới, là vị hư mà tràng thực. V́ thế con người trong quá tŕnh chuyển hoá, tiêu hoá hấp thu chính là có hư có thực, cũng có thể nói hư thực luân phiên thay thế nhau, như vậy ẩm thực vật từ trên đi xuống dưới, sau cùng biến thành chất cặn bă, theo giang môn bài xuất ra ngoài. V́ thế gọi là lục phủ chuyển hoá vật mà không trữ tàng. Lại nói lục phủ với thông là thuận. Đây là thể hiện công năng sinh lư của lục phủ. Tại sao gọi là lục phủ? Phủ chính là có nhập có xuất, giống như nhà kho, không thể có nhiều tích tụ, ngưng tụ, một khi tích khối, ngưng tụ, gây tắc nghẽn, là xuất hiện trạng thái bệnh.
Vấn đề hiện tại là vị gia thực, là vị và tràng đă thành thực chứng rồi.
Tà nhiệt truyền đến Dương minh, trong Dương minh vị khô ráo và nóng, v́ khô ráo tổn thương tân dịch, do nhiệt tạo thành táo (khô ráo), do táo tạo thành thực chứng, tân dịch đă tổn thương, khiến chất cặn bă chuyển hoá là phân thành một loại phân khô cứng ở trong ruột không bài tiết ra ngoài, trong ruột có nhiều cục phân cứng không đưa ra ngoài được, nên tràng thành thực (chứng).
Tại sao? Người b́nh thường mỗi ngày đại tiện một lần, thậm chí là 2 lần, ở đây là 7,8 ngày hoặc 9 ngày đại tiện vẫn chưa được, th́ không phải là thực sao? Chính là thực.
Khi ruột là thực, vị khí sẽ không đi xuống dưới, v́ vị và tràng chính là hỗ tương liên tiếp.
Tràng thực mà vị măn (đầy), mà vị th́ táo nhiệt, v́ thế sẽ xuất hiện một số thực chứng táo nhiệt, do đại tiện không bài xuất được nên vùng bụng có các chứng trạng như bế tắc, đầy bụng, đau bụng, phân cứng, đau ở vùng rốn, ngoài ra c̣n triều nhiệt, xuất hăn, bực bội, nói nhảm. Những hội chứng này, then chốt là ǵ? Then chốt là vị gia thực, cần phải giải quyết thực chứng này, đưa phân khô táo ra ngoài, các chứng trạng sẽ được giải quyết. V́ thế táo bón nhiều ngày, có nhiều phân khô cứng, nếu không dùng thang Đại thừa khí để tả hạ th́ không thể giải quyết bệnh.
Đây là từ bệnh lư dẫn đến các triệu chứng. Để nắm bắt được bệnh lư thực tế, Trương Trọng Cảnh đề nghị hăy suy luận các triệu chứng từ bệnh lư. Vị không thể quá thực, mà là sự thay đổi giữa hư và thực, là thay thế mới cũ, là chuyển hoá. Nó phải đào thải một số chất cặn bă ra ngoài cơ thể, đó là sinh lư của nó. Nếu như cặn bă và một số thứ trao đổi chất bị tắc nghẽn ở ruột già, th́ gọi Vị gia thực, tràng thực vị măn, táo nhiệt ngưng tụ không xuống, liền tạo thành Dương minh thực chứng. V́ thế thực là có vật chất. Xét như vậy, vị gia thực chính là cương lĩnh.
Trường Xuân Ng Nghị
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-12-20 12:19:34
Từ điều 181 đến 191
181 问曰:何缘得阳明病?答曰:太阳病若发汗,若下,若利小便,此亡津液,胃中干燥,因转属阳明,不更衣,内实,大便难者,此名阳明也。C192
181 Vấn viết: Hà duyên đắc Dương minh bệnh? Đáp viết: Thái dương bệnh nhược phát hăn, nhược hạ, nhược lợi tiểu tiện, thử vong tân dịch, vị trung can táo, nhân chuyển thuộc Dương minh, bất canh y, nội thực, đại tiện nan giả, thử danh Dương minh dă. C192
Điều này nối tiếp điều trên, giảng về bệnh ở kinh Thái dương do điều trị sai lầm, tổn thương tân dịch mà thành bệnh ở kinh Dương minh
Bệnh ở kinh Dương minh chính là Vị gia thực, là do phát hăn hoặc tả hạ hoặc lợi tiểu ở giai đoạn Thái dương bệnh mà gây tổn thương tân dịch ở vị tràng , vị bị khô táo, “nhân chuyển thuộc Dương minh” (因转属阳明), “nhân” là chỉ về phát hăn, tả hạ, lợi tiểu, mất tân dịch. Chuyển thuộc và chuyển nhập có sự khác biệt, chuyển nhập là bệnh tà của Thái dương hoàn toàn thuộc về Dương minh, có thể nói là truyền kinh. Chuyển thuộc có ư là bệnh tà của kinh Thái dương có chuyển về Dương minh nhưng không phải là toàn bộ, mà ở Thái dương vẫn c̣n lại một phần tà khí. Đây gọi là chuyển thuộc hoặc là chuyển hệ, trên thực tế ở đây có nghĩa là hai kinh Thái dương và Dương minh cùng bị bệnh.
Bất canh y (Không thay áo) chính là không đi đại tiện, thời cổ đại có lệ này, “canh y nhập xí” (更衣入厕), thay đổi y phục rồi mới vào nhà xí. Người xưa mặc y phục rất rộng nên mỗi khi đi đại tiện phải thay quần áo ngắn gọn, người này không thay quần áo có nghĩa là không đi đại tiện, cũng có nghĩa là đại tiện khó khăn, đại tiện khó khăn sẽ thành Dương minh nội thực. Không thay quần áo sẽ không vào nhà xí, đại tiện đă bí kết. Có chứng bí kết sẽ thành nội thực, tạo thành chứng nội thực ở Dương minh.
“Đại tiện nan giả, thử danh Dương minh dă”. Đây là câu tổng kết. Không đại tiện là đă h́nh thành nội thực, đây là đại tiện khó khăn, chính là bệnh ở kinh Dương minh. Cũng có thể lư giải việc không thay quần áo (để vào nhà xí), là nội thực, không thay quần áo là một hiện tượng, nội thực chính là bệnh lư, hoặc nói c̣n có đại tiện khó khăn, nói như vậy không dễ hiểu. Ư của người viết là, đại tiện khó khăn là ư tổng quát từ trước, v́ không thay quần áo (ư nói không đi đại tiện) là Dương minh nội thực chứng, đại tiện khó khăn là thuộc về kinh Dương minh. Điều này cho thấy khi trị bệnh ở kinh Thái dương không nên gây tổn thương tân dịch, một khi tân dịch bị tổn hại, bệnh tà ở kinh Thái dương sẽ chuyển thuộc Dương minh, hoặc truyền về Dương minh. Một khi đă truyền đến Dương minh, sẽ khó đại tiện, biến thành lư thực chứng ở kinh Dương minh. Sau khi h́nh thành lư thực chứng ở Dương minh, thày thuốc làm thế nào để biết được? Dương minh vị gia thực ngưng tụ ở trong, kiến kỳ ngoại nhi tri kỳ nội (nh́n bên ngoài th́ biết bên trong), từ những hội chứng phản ảnh ra ngoài, có thể biết Dương minh lư nhiệt đă thành chứng lư thực.

182 问曰:阳明病外证云何?答曰:身热,汗自出,不恶寒,反恶热也。C193
182 Vấn viết: Dương minh bệnh ngoại chứng vân hà? Đáp viết: Thân nhiệt, hăn tự xuất, bất ố hàn, phản ố nhiệt dă. C193
Điều này thảo luận về biểu hiện bên ngoài của bệnh ở kinh Dương minh, để phân biệt với bệnh ở kinh Thái dương.
Đă h́nh thành nội thực, bất canh y (ư là không vào nhà xí)đại tiện khó khăn, nó phản ảnh chứng trạng ra bên ngoài như thế nào? Đáp: Một là thân thể nóng, gọi là thân thể nóng (thân nhiệt) mà không phải là phát nhiệt (phát sốt). Bên trong táo nhiệt thành thực chứng, v́ khí Dương minh rất mạnh, v́ thế thân thể bốc nóng (chưng chưng nhi nhiệt) chưng là nóng như khi nấu ăn, làm bánh, mở vung nồi, hơi nóng ở đáy nồi bừng bừng bốc lên. Nóng gọi là chưng chưng là nóng từ bên trong hướng ra ngoài và sức nóng mạnh mẽ.
Trên lâm sàng dùng tay án chẩn, làm sao để biết là nóng chưng chưng? Tuy đều là phát sốt, phát sốt của Thái dương bệnh gọi là chiết chiết phát nhiệt, là khi dùng tay đặt lên da thịt bệnh nhân có cảm giác rất nóng, sau một lát lại có cảm giác không nóng lắm. Nóng chưng chưng của Dương minh bệnh là khi đặt tay lên da thịt, ngực bụng của bệnh nhân, bàn tay có cảm giác nóng, sức nóng rất mạnh, thời gian càng dài, mức độ cảm giác nóng càng nghiêm trọng. Một loại nóng nhiệt mănh liệt như vậy, từ trong hướng ra ngoài, v́ thế thể dịch, âm phận của cơ thể khó tránh khỏi theo đó mà xuất ra ngoài.
Nhiệt khí mănh liệt như vậy, từ bên trong hướng ra ngoài, v́ thế thể dịch trên cơ thể sẽ xuất ra, là mồ hôi tự xuất, lượng mồ hôi khá nhiều. xuất hăn chính là sự bức bách bốc hơi của tà nhiệt, cũng chính là bản năng sinh lư tự vệ xuất hăn để tản nhiệt, hai điều này kèm theo nhau mà có (xuất hăn và tán nhiệt), nhiệt tà mạnh như vậy, từ bên trong hướng ra ngoài bức bách mồ hôi và nhiệt xuất ra, quy luật của Dương minh bệnh chính là xuất nhiều mồ hôi. Ngoài ra, cũng phải thấy trong người bệnh rất nóng, đại tiện không thông, lại không xuất ra được chút mồ hôi th́ bệnh chẳng quá tệ sao? V́ thế khi bệnh nhân xuất hăn dù ít, cũng ít nhiều giảm bớt được chứng lư nhiệt.
Hai điểm sau đây chính là chẩn đoán phân biệt, “bất ố hàn, phản ố nhiệt dă” Chứng xuất hăn của bệnh ở kinh Dương minh là chứng xuất hăn của lư nhiệt không giống với chứng xuất hăn do doanh nhược vệ cường của Thái dương trúng phong, xuất hăn lượng ít, hăn xuất nhẹ nhàng chỉ đến mực độ da ẩm ướt mà thôi, c̣n ở đây hăn xuất như nước, đồng thời chứng Thái dương trúng phong c̣n sợ lạnh, sợ gió, nà bệnh ở kinh Dương minh th́ sốt hầm hầm, xuất nhiều mồ hôi mà không sợ lạnh, mà sợ nóng. V́ táo nhiệt thực chứng, càng mát th́ càng dễ chịu. Xét theo chứng bên ngoài, nóng chưng chưng, xuất nhiều mồ hôi, xuất nhiều mồ hôi tân dịch sẽ bị tổn hại. Lúc này, lư (bên trong) đă thực, tràng vị đă có phân khô. Đoạn văn này viết rất tốt, các khâu liên kết với nhau cần ghi nhớ. Người học Dương minh bệnh sẽ ghi nhớ bĩ, măn, táo kết, thực chuyển thỉ khí, những nỗ lực trên phương diện này rất lớn, đều nên ghi nhớ. Câu hỏi về ngoại chứng của Dương minh bệnh là ǵ? Ồ, Dương minh bệnh c̣n có ngoại chứng, Dương minh bệnh là lư chứng, không có ngoại chứng, đây là sơ sót của điều này. V́ thế nên chú ư ghi nhớ.
Lư chứng phản ứng ở ngoài gọi là ngoại chứng, nhưng ngoại chứng không phải là biểu chứng, thân thể nóng, tự xuất mồ hôi, không sợ lạnh, lại sợ nóng là ngoại chứng.

183 问曰:病有得之一日,不发热而恶寒者,何也?答曰:虽得之一日,恶寒将自罢,即自汗出而恶热也。C194
183 Vấn viết: Bệnh hữu đắc chi nhất nhật, bất phát nhiệt nhi ố hàn giả, hà dă? Đáp viết: Tuy đắc chi nhất nhật, ố hàn tương tự băi, tức tự hăn xuất nhi ố nhiệt dă. C194
Điều này thảo luận về nguyên nhân sợ lạnh của Dương minh bệnh lúc sơ khởi, đến biện chứng yếu điểm của chuyển thuộc Dương minh. Khi bệnh tà ở kinh Thái dương truyền cho Dương minh nên xuất hiện chứng nóng hầm hầm của Dương minh, bệnh đă rời khỏi biểu của Thái dương mà nhập lư của Dương minh. Nhưng trong thời gian chuyển từ Thái dương sang Dương minh, ở giữa có một quá tŕnh. “Bệnh hữu đắc chi nhất nhật, bất phát nhiệt nhi ố hàn giả, hà dă?” (病有得之一日,不发热而恶寒者,何也) bệnh tà đă vào kinh Dương minh, ngày thứ nhất không phát nhiệt, c̣n sợ lạnh, lẽ ra nên phát nhiệt, hiện tại người bệnh không phát nhiệt, mà sợ lạnh. Bệnh tà của Thái dương vừa truyền vào Dương minh, có thể sợ lạnh mà không xuất hiện phát nhiệt, đó chính là câu hỏi của vấn đề.
“Tuy đắc chi nhất nhật, ố hàn tương tự băi, tức tự hăn xuất nhi ố nhiệt dă.” (虽得之一日,恶寒将自罢,即自汗出而恶热也。)Tuy thời gian là một ngày, một ngày ở đây có nghĩa là bắt đầu, có một chút sợ lạnh, bệnh tà vẫn chưa hoàn toàn nhập lư, nhưng có chiều hướng nhập lư. “Ố hàn tương tự băi, tức tự hăn xuất nhi ố nhiệt dă.” Cảm giác ghét lạnh sợ lạnh không quá lâu, cũng có thể là sợ lạnh nửa ngày, một ngày, rồi rất nhanh chóng hết cảm giác sợ lạnh, và xuất hiện các chứng trạng của kinh Dương minh như xuất mồ hôi và sợ nóng. V́ thế nội dung của bài này là khi bệnh tà truyền vào kinh Dương minh, là có một quá tŕnh, không thể nói một câu bệnh truyền vào là truyền ngay vào phủ, vào vị tràng. Khi bệnh c̣n chưa nhập hoàn toàn vào vị tràng, th́ người bệnh vẫn c̣n một chút cảm giác sợ lạnh, nhưng chỉ trong thời gian rất ngắn cảm giác sợ lạnh sẽ hết, và xuất hiện các chứng trạng chủ yếu của kinh Dương minh như phát nhiệt, xuất hăn.

184 问曰:恶寒何故自罢?答曰:阳明居中,主土也,万物所归,无所复传,始虽恶寒,二日自止,此为阳明病也。C195
184 Vấn viết: Ố hàn hà cố tự băi? Đáp viết: Dương minh cư trung, chủ thổ dă, vạn vật sở quy, vô sở phục truyền, thuỷ tuy ố hàn, nhị nhật tự chỉ, thử vi Dương minh bệnh dă. C195
Bài này thảo luận về cơ chế ố hàn tự băi (tự hết cảm giác ghét lạnh)
Dương minh ở trung ương, thuộc thổ. Thổ là nơi ở của vạn vật, v́ thế bệnh tà đến Dương minh, giống như vạn vật về với thổ. “Vô sở phục truyền”, (không c̣n chỗ để tiếp tục truyền) đă đến Dương minh. Thời gian ở Dương minh sẽ rất dài. Như đă nói ở phần trên kinh Dương minh có kinh có phủ, khi bệnh tà đến kinh th́ tà có thể truyền, khi đă đến phủ, phủ liền tụ lại, và thành thực chứng.
Bệnh tà ở kinh, không thể ngưng tụ, v́ thế kinh tà có thể biến động, có thể truyền biến; Sau khi đến phủ, tà khí sẽ ngưng kết lại, tạo thành Vị gia thực, không truyền biến linh hoạt giống như kinh tà. Cho nên như vậy chính là “Thuỷ tuy ố hàn” (lúc đầu tuy sợ lạnh), khi bắt đầu bệnh tà chưa đến phủ, bệnh tà c̣n ở kinh nên c̣n cảm giác sợ lạnh. “Nhị nhật tự chỉ” (二日自止) là đến ngày thứ hai, bệnh tà đă đến Dương minh phủ, sẽ không sợ lạnh mà phát nhiệt xuất mồ hôi.
“Thử vi Dương minh bệnh dă” (此为阳明病也). Đây gọi là bệnh ở kinh Dương minh. Điểm nổi bật là Dương minh có kinh chứng và phủ chứng, kinh chứng ở bên ngoài, phủ chứng ở bên trong, có sự khác biệt khi bệnh truyền đến kinh và truyền đến phủ. Khi ở kinh Dương minh, tà khí không thể ngưng tụ, v́ “kinh giả kính dă”(kinh là đường nhỏ), chỉ khi truyền đến phủ, đến vị tràng th́ tà khí mới có thể ngưng tụ, v́ thế người xưa ví vị (dạ dày) thuộc thổ, đợi tà khí đến vị, như vạn vật về với đất, th́ sẽ không tiếp tục truyền về đâu nữa.
185 本太阳病,初得病时发其汗,汗先出不彻,因转属阳明也。C196
185 Bản Thái dương bệnh, sơ đắc bệnh thời phát kỳ hăn, hăn tiên xuất bất triệt, nhân chuyển thuộc Dương minh dă. C196
Điều này thảo luận về Thái dương bệnh xuất hăn không hết, chuyển thuộc Dương minh.
Thái dương bệnh cũng chuyển thuộc dương minh do “phát kỳ hăn, hăn tiên xuất bất triệt” (汗先出不彻) phát hăn không triệt để, và không giống với nghĩa này, ư tứ của hai phương diện đều có. Điều C196 vốn là Thái dương bệnh vừa bị bệnh, thày thuốc dùng phương pháp phát hăn, là thuận hợp, không sai, phát hăn giải biểu để trị liệu bệnh ở kinh Thái dương là đúng. Nhưng, “hăn tiên xuất bất triệt”, mồ hôi tuy đă xuất ra, “bất triệt” chữ “triệt” giảng thành “trừ”. Có nhiều giả thiết về chữ chữ này, có nhà chú giải cho rằng. “hăn xuất bất triệt” là hăn xuất không triệt để, cũng có người cho rằng hăn tiên xuất “bất đạt”, đạt của thông đạt; Cũng có nơi giảng là chữ “trừ”. Người viết cho rằng nói theo chữ “trừ” là đúng, v́ sau đó c̣n có nội dung chữ “triệt” tương đương với chữ “trừ”, nếu như có nơi cho là “bất đạt” th́ sẽ mâu thuẫn với phần dưới.
Tuy đă phát hăn, tà khí có thể không giải. V́ sao không giải? Phát hăn một lần tà khí không giải th́ có thể tái phát hăn, cũng có khả năng do phát hăn không đúng phép, v́ thế không thể khẳng định đă phát hăn là tà khí đều giải, cũng có khi tà khí không giải. Do hăn xuất mà tà khí không giải, “nhân chuyển thuộc dương minh dă” (因转属阳明也), biểu tà của Thái dương chuyển thuộc Dương minh, chuyển thuộc dương minh này và “Hà duyên đắc dương minh bệnh, thái dương bệnh, phát hăn hoặc hạ, lợi tiểu tiện, vong tân dịch, vị trung can táo, nhân chuyển thuộc dương minh” (何缘得阳明病,太阳病,发汗或下,利小便,亡津液,胃中干燥,因转属阳明) có ư nghĩa không giống nhau, đó là phát hăn, lợi tiểu tiện vong tân dịch, ở đây không vong tân dịch. V́ thế tác giả Vưu Di của {Thương hàn quán châu tập}đề xuất quan niệm cá nhân, người viết cho rằng rất tốt, v́ sao? V́ cả hai đều chuyển thuộc Dương minh
Trường hợp chuyển thuộc Dương minh do mất tân dịch ở phần trước là thành Dương minh phủ chứng; C̣n ở đây v́ chuyển thuộc Dương minh thuộc về Dương minh kinh chứng. Bệnh tà Thái dương không đi vào trong, truyền đến kinh của Dương minh, v́ sao? Đây là nó không gây tổn thương tân dịch trong vị, không truyền đến phủ của Dương minh. Đó là sự khác biệt, tổn thương tân dịch th́ bệnh sẽ truyền vào phủ của Dương minh, không tổn thương tân dịch th́ bệnh sẽ truyền đến kinh của Dương minh.

185 伤寒发热,无汗,呕不能食,而反汗出濈濈然者,是转属阳明也。C197
185 Thương hàn phát nhiệt, vô hăn, ẩu bất năng thực, nhi phản hăn xuất trấp trấp nhiên giả, thị chuyển thuộc Dương minh dă. C197
Bài này thảo luận về các chứng trạng của chứng thương hàn chuyển thuộc Dương minh.
Bệnh tà của Thái dương sau khi truyền vào Dương minh có một phản ảnh đặc biệt, là trấp trấp hăn xuất (mồ hôi như nước). “Thương hàn phát nhiệt vô hăn”, đây là bệnh tà ở biểu, là Ma hoàng thang chứng. “Ẩu nhi bất năng thực”, xuất hiện đă ẩu thổ c̣n không thể ăn uống, đây là khí bên trong bất hoà, vị khí bất hoà. Khí bên trong bất hoà, biểu tà của Thái dương có khuynh hướng đi vào trong, xét từ chứng trạng ẩu thổ không thể ăn uống, có điểm rất giống với tà khí truyền nhập theo kinh Thiếu dương. “Nhi phản hăn xuất trấp trấp nhiên giả” (而反汗出濈濈然者), nếu như ẩu thổ không thể ăn uống là do khí của kinh Thiếu dương không thuận lợi, sẽ xuất hiện Thiếu dương chứng, như ngực sườn trướng đầy khó chịu, hàn nhiệt văng lai, tâm phiền hay nôn, hiện tại không thấy Thiếu dương chứng, trước đây không thấy xuất hăn, hiện tại ngược lại, mồ hôi rất nhiều “hăn xuất trấp trấp nhiên giả” là xuất hăn liên tục không ngừng, trấp trấp, giống như nước chảy vậy. Có bạn đồng học hỏi Trần Thận Ngô là làm sao để nhận ra thế nào là trấp trấp hăn xuất, Trần lăo trả lời là toàn thân xuất mồ hôi, liên miên không ngừng. Bạn đồng học vẫn nói là không hiểu, ông Trần lại nói, nếu bạn vẫn chưa hiểu điều đó, bạn chọn một ngày nắng nóng, sau khi chạy hai ṿng sân trường bạn uống một chén nước nóng, bạn sẽ hiểu về chứng trấp trấp xuất hăn là như thế nào. Người học sinh đó làm theo và đổ mồ hôi dữ dội, người này nói: Ông Trần, tôi đă hiểu rồi.
Xuất hăn rất nhiều, xuất hăn liên tục, loại xuất hăn này chỉ thấy ở Dương minh. Dương minh hữu nhiệt, khô nóng ở bên ngoài, v́ thế xuất hăn nhiều, loại xuất hăn này chính là chuyển thuộc Dương minh. Đây là biểu tà thương hàn chuyển nhập Dương minh. Đây không phải là chuyển thuộc vào Thiếu dương, không nên v́ chứng ẩu thổ không ăn được mà cho là Thiếu dương.
Trên thực tế chính là chuyển thuộc Dương minh. Làm sao để biết? V́ trấp trấp hăn xuất (xuất hăn liên tục khắp cả người) nhiệt trong Dương minh rất mạnh bức bách tân dịch thấm ra ngoài, v́ thế nên xuất hăn như vậy. Chứng xuất hăn của Thiếu dương chỉ xuất hăn khi nhắm mắt, tức là mồ hôi khi ngủ là đạo hăn (mồ hôi trộm), không thể xuất hăn trấp trấp (xuất hăn toàn thân và liên tục) phản ảnh của bệnh tà truyền Dương minh, đây là chẩn đoán rất có ư nghĩa. V́ lúc này, các chứng trạng như bụng trướng đầy, đau bụng, đại tiện bí kết đều chưa xuất hiện, chỉ xuất hiện duy nhất một chứng trạng là xuất mồ hôi như nước (trấp trấp xuất hăn), cho biết tà khí đă truyền vào Dương minh, v́ thế đây là chứng trạng chẩn đoán rất có ư nghĩa.

186 伤寒三日,阳明脉大者。C198
186 Thương hàn tam nhật, Dương minh mạch đại giả. C198
Điều này viết về chủ mạch của Dương minh, từ đó phản ảnh cơ chế bệnh.
Mạch của Dương minh chính là mạch Đại. Mạch Đại bao gồm mạch hiện tại gọi là mạch Hồng , v́ mạch có diện tích rộng lớn, v́ thế người xưa dùng ẩn dụ gọi là hồng, “Thuỷ chi đại giả, vị chi hồng” (水之大者,谓之洪) khi nước lớn th́ gọi là hồng thuỷ tràn lan. Nước lớn sẽ có sóng to (ba đào), được dùng để mô tả h́nh tượng và h́nh dạng mạch ở người. “Hồng mạch lai chi phách phách nhiên, khứ suy lai thịnh tự ba lan” (洪脉来之拍拍然,去衰来盛似波澜) diện tích của mạch rất rộng, thế mạch đến rất dữ dội rất mạnh mẽ rồi yếu dần và đó chính là đặc điểm của mạch Hồng.
“Thương hàn tam nhật” (伤寒三日) Thương hàn ba ngày là nói về quá tŕnh bệnh, thương hàn là bệnh ngoại cảm, ba ngày không phải là một ngày, là thời gian thụ bệnh của Thái dương.
“Thương hàn nhất nhật, Thái dương thụ chi” (伤寒一日,太阳受之) Thương hàn một ngày, bệnh ở kinh Thái dương; “Mạch nhược tĩnh giả nhi bất truyền” (脉若静者为不传) Mạch yên tĩnh là bệnh không truyền kinh, “thương hàn nhị tam nhật, Dương minh Thiếu dương chứng bất kiến giả vi bất truyền dă.” (伤寒二三日,阳明少阳证不见者为不传也。)thương hàn 2,3 ngày không thấy chứng trạng của Dương minh Thiếu dương là bệnh không truyền, ư nghĩa giống nhau. Đă 3 ngày, không c̣n ở giai đoạn bắt đầu, nếu như bệnh đă truyền kinh, th́ đă có thể truyền đến kinh Dương minh. Thương hàn ba ngày, bệnh tà truyền đến kinh Dương minh, dương khí của kinh dương minh hưng thịnh, khí huyết của dạ dày (vị) dồi dào, v́ thế lực đề kháng bệnh tà mạnh mẽ, dương khí có thừa, h́nh thành chứng dương nhiệt, v́ thế xuất hiện mạch Hồng Đại, “dương minh mạch đại”(阳明脉大). Mạch Đại và Mạch Thực khác nhau, mạch đại không bằng mạch thực. Mạch thực nói về lực, v́ thế Lư Tần Hồ c̣n đem so sánh Mạch Thực và mạch Hồng với nhau. “Hồng mạch lai thế phách phách nhiên, khứ suy lai thịnh tự ba lan.” (洪脉来势拍拍然,去衰来盛似波澜。) Mạch Hồng thế mạnh như sóng vỗ, đến th́ mạnh đi th́ yếu tựa như sóng dữ. So sánh giữa mạch Hồng và mạch Thực, mạch Thực ấn vào mọi nơi đều cứng, mạch đập có sức mạnh; Mạch Hồng là khi đến th́ mạnh, khi đi th́ yếu hơn, lực của mạch Hồng không bằng lực của mạch Thực.
Mạch của chứng Vị gia thực Dương minh bệnh chính là mạch Trầm Thực mà có lực, tại sao ở đây có mạch Đại? V́ thương hàn 3 ngày, thời gian không quá dài, tà khí nhập vào Dương minh, chưa có thể tạo thành nhiều phân cứng ( 5,6 cục) trong ruột, c̣n chưa đạt tới mực độ như trên, mà chỉ ở giai đoạn dương khí vượng thịnh, có lực đề kháng bệnh tà. V́ thế nên có mạch Hồng Đại. Nếu như do nhiệt tạo thành táo, từ táo thành thực, đại tiện bí kết 7,8 ngày, lúc này sẽ thấy mạch Thực, mạch Trầm Thực hữu lực. V́ thế Dương minh mạch đại và chứng Thương hàn ba ngày cần phải xem xét liên hệ với nhau. Mạch Đại, mạch ở bụng ngón tay, tức là vùng dưới bụng ngón tay có diện tích rộng lớn.
Đại là chỉ về diện tích, cũng có thể nói là mạch đập trên phạm vi khá lớn. Ngược lại với mạch Đại là mạch Tiểu, Đại Tiểu là đối nhau.

187 伤寒,脉浮而缓,手足自温者,是为系在太阴;太阴者,身当发黄,若小便自利者,不能发黄;至七八日,大便鞕者,为阳明病也。C199
187 Thương hàn, mạch Phù nhi Hoăn, thủ túc tự ôn giả, thị vi hệ tại Thái âm; Thái âm giả, thân đương phát hoàng, nhược tiểu tiện tự lợi giả, bất năng phát hoàng; Chí thất bát nhật, đại tiện tiên giả, vi Dương minh bệnh dă. C199
Từ điều này đến điều C212 trọng điểm thảo luận là thấp nhiệt và hàn thấp và một số t́nh huống như vị hư, vị lănh (dạ dày bị hư tổn, dạ dày bị lạnh) của Dương minh, đồng thời c̣n có một vài ư tứ không thể tả hạ ở bên trong. So sánh như vậy sẽ tăng cường được năng lực biện chứng, và cần phải nhất phân vi nhị (mâu thuẫn nhưng thống nhất) để xét vấn đề của Dương minh, cần xét đến do nhiệt tạo thành chứng táo ở Dương minh, do táo tạo thành thực chứng, cũng cần xem xét do nhiệt mà tạo thành chứng thấp, hoặc do hàn mà tạo thành chứng thấp của Dương minh.
Điều này thảo luận về phân biệt mạch chứng của Thái dương với Thái âm và của Thái dương với Dương minh, cho thấy bệnh chứng âm dương có cơ chế xuất nhập chuyển hoá. Nói theo quan hệ biểu lư của Dương minh và Thái âm, Dương minh chủ táo (khô ráo), Thái âm chủ thấp (ẩm ướt), táo và thấp có khí khác nhau, hai kinh này một là dương và một là âm, khác nhau nhưng chúng có mối liên hệ nội tại, thông qua tạng phủ, kinh lạc với tương quan biểu lư kiến lập liên hệ với nhau. Điều này sẽ thảo luận khi Dương minh bệnh có quan hệ với Thái âm. Không cần xét đến vị, mà cần xét xem vị có cơ chế chuyển hoá âm dương hỗ tương không, Điều văn sẽ tŕnh bày cụ thể vấn đề này. “Thương hàn mạch phù nhi hoăn” (伤寒脉浮而缓) Thương hàn mạch phù mà hoăn, đề pháp này đă nói ở Đại thanh long thang chứng. Thương hàn mạch nên Phù mà Khẩn, v́ sao “mạch phù nhi hoăn”? hoăn là khẩn không c̣n, mạch khẩn biến thành mạch hoăn, bệnh tà Thái dương hoá nhiệt, mạch sẽ không c̣n khẩn, v́ mạch khẩn thuộc hàn.
Biểu tà từ hàn hoá nhiệt là đă có biến hoá, là phải vào trong, hoá nhiệt nhập lư có phân ra âm dương, một là nhập vào Dương minh, là bệnh tà của Thái dương hoá nhiệt nhập lư truyền đến Dương minh, ngoài ra c̣n một cái nhập lư mà truyền đến Thái âm. Nó chính là nhập Dương minh lại c̣n nhập Thái âm? Ở đây có sự phân biệt và so sánh, “Thủ túc tự ôn giả, tự vi hệ tại Thái âm.” (手足自温者,是为系在太阴。)tay chân ấm th́ có liên hệ với Thái âm. Nếu như bệnh nhân tay chân và toàn thân đều nóng, mà c̣n rất khát th́ gọi là “hệ tại Dương minh” (系在阳明). Hiện tại ở đây thân thể bệnh nhân không phát nhiệt, chỉ có “thủ túc tự ôn giả”, tay chân phát nhiệt, toàn thân không phát nhiệt, đây không phải là “hệ tại Dương minh”, mà chính là “Hệ tại Thái âm”. Cái ǵ gọi là “hệ”? “hệ” là liên hệ, phàm liên hệ là vấn đề của hai bên, hai phương diện của vấn đề có thể gọi bằng chữ “hệ”. Hiện tại bệnh này ở kinh Thái dương, “Thương hàn mạch phù nhi hoăn”, “phù” chính là Thái dương, là Thái dương biểu. Mạch Khẩn biến thành mạch hoăn, mạch Phù chưa biến là bệnh c̣n ở Thái dương.
V́ sao lại “hệ tại Thái âm” được? Điều này thực sự có nghĩa là Thái dương và Thái âm cùng bị bệnh, là bệnh tà tại Thái dương chưa giải mà bệnh tà ở Thái âm đă xuất hiện.
Tứ chi là biểu của tạng Tỳ, Tỳ chủ tứ chi, v́ thế thủ túc của nó ấm áp. Sự ấm áp này, chứng tỏ nhiệt của Thái dương đă ở Thái âm, mà không phải là hàn lănh ở Thái âm. Hàn lănh tại Thái âm có thể làm cho tay chân lạnh, tay chân ấm áp chính là nhiệt ở Thái âm.
“Thái âm giả, thân đương phát hoàng” (太阴者,身当发黄) là tà khí không ở Dương minh mà là ở Thái âm, Thái âm chủ về thấp, tạng tỳ đă bị bệnh, không thể vận hoá thuỷ thấp, nó sẽ hoá theo thấp, liên hệ đối ứng với hoá táo của Dương minh, như vậy là thấp gia thêm nhiệt, thấp nhiệt uẩn chưng, bệnh nhân này sẽ bị vàng toàn thân. Gọi là bị vàng do thấp nhiệt, làm sao biết bị vàng da do thấp nhiệt? V́ tay chân người này ấm áp. Chứng vàng da do thấp nhiệt có chứng trạng là tiểu tiện không thuận lợi, v́ có chứng thấp nên tiểu tiện khó khăn, thấp không có lối ra, uất tích lại ở bên trong, với nhiệt tà hỗ tương nung đốt, mà biến thành vàng da.
“Nhược tiểu tiện tự lợi giả, bất năng phát hoàng” (‚若小便自利者,不能发黄) nếu tiểu tiện thuận lợi th́ không phát bệnh vàng da, đây là lư luận, nếu người bệnh tiểu tiện thuận lợi, thấp tà có đường ra, có thể theo tiểu tiện bài tiết ra ngoài cơ thể, như vậy chỉ có nhiệt mà không có thấp, nên không thể phát bệnh vàng da, v́ thấp và nhiệt nung nấu sẽ phát bệnh vàng da, hiện tại, tiểu tiện thuận lợi, thấp có đường ra ngoài, chỉ có nhiệt và không có thấp, v́ thế không thể phát bệnh vàng da.
Không thể phát bệnh vàng da, là thấp đă được trừ khứ chỉ c̣n nhiệt lưu lại, đến 7,8 ngày sau, “Đại tiện ngạnh giả” (大便硬者) phân khô cứng, tiểu tiện thuận lợi, phân biến thành khô cứng. Đây là Thái âm xuất ra Dương minh, nhiệt đă hoá táo, phân thành khô cứng. phân khô cứng, là thành Vị gia thực, “vi dương minh bệnh dă”.(为阳明病也) là bệnh ở kinh Dương minh.
Chứng thấp có tiểu tiện không thuận lợi, chứng táo có phân khô cứng. Bất luận là trong trị liệu ở {Thương hàn luận} hay trong tạp bệnh nội khoa, đây đều là những lư luận có tác dụng chỉ đạo.
Tiểu tiện bất lợi, thấp nhiệt ngưng kết, sẽ xuất chứng vàng da. Có thấp là tiểu tiện bất lợi, đến khi tiểu tiện thuận lợi, thấp khứ nhiệt lưu lại, xuất ra Dương minh mà hoá táo, phân liền khô cứng.
Thái âm chủ lư (bên trong), Dương minh chủ biểu (bên ngoài), v́ thế tà khí từ bên trong xuất ra ngoài, từ âm xuất dương, từ thấp nhiệt biến thành táo nhiệt, có thể thấy liên hệ nội tại (bên trong) và quan hệ biểu lư của Dương minh và Thái âm . Đây là lư thuyết bệnh lư học của y học Trung quốc, bạn nên thưởng thức nó, dần dần sẽ hiểu được tinh thần của nó.

188 伤寒转系阳明者,其人濈然微汗出也。
C200
188 Thương hàn chuyển hệ Dương minh giả, kỳ nhân trấp nhiên vi hăn xuất dă. C200
Điều này nối tiếp điều trên (C199) thảo luận về chứng trạng khi bệnh tà truyền đến Dương minh.
Bệnh đă truyền vào Dương minh, phân liền khô cứng. “Thương hàn truyền hệ Dương minh giả, kỳ nhân trấp nhiên vi hăn xuất dă.” (伤寒转系阳明者,其人濈然微汗出也。) Thương hàn truyền vào kinh Dương minh, người bệnh c̣n xuất mồ hôi. Điều này có liên hệ với điều trên, nói về tà khí thương hàn nếu quả thực truyền vào Dương minh, không những chỉ đơn thuần là tiểu tiện tự lợi, mà c̣n “kỳ nhân trấp nhiên vi hăn xuất dă”(người bệnh này c̣n xuất mồ hôi ít nhưng liên miên không dứt). Kinh Dương minh nhiều nhiệt, nhiệt hun nóng bên trong, xuất hăn ở ngoài. V́ sao biết được tà khí đă chuyển về Dương minh? Là phân khô cứng. Đó là ngày thứ bảy hoặc ngày thứ 8, không phải là có thể biết ngay lập tức, nếu là hai, ba ngày th́ làm sao biết được tà khí đă chuyển đến Dương minh? Chính là trấp nhiên vi hăn xuất (là xuất mồ hôi ít nhưng liên miên không dứt). Tà khí chỉ cần truyền đến Dương minh, nhiệt hun nóng ở trong, mồ hôi liền xuất ra ngoài.
Xuất hăn nhẹ không mâu thuẫn với trấp nhiên (liên miên) v́ nhiệt ở Dương minh vừa xuất hiện, thời gian không quá lâu, nó bắt đầu xuất hăn, nên lúc này hăn xuất không mạnh, mồ hôi ra ít nhưng liên miên không ngừng. Bắt đầu thấy mồ hôi ra ít, nhất định là mồ hôi xuất liên miên, càng ra càng nhiều. Như vậy sẽ h́nh thành Dương minh phát đa hăn (dương minh phát nhiều mồ hôi). Vấn đề ǵ cũng có mở đầu và kết thúc, khi mới xuất mồ hôi th́ có thể ít hơn, nhưng mồ hôi của Dương minh luôn là “trấp trấp chi hăn” mồ hôi như nướclàmột loại mồ hôi của Dương minh, mồ hôi liên miên không ngừng.
Điều này có liên hệ với điều trên (C199). Bệnh tà thương hàn không chuyển đến Thái âm, chuyển đến Dương minh. Chuyển đến Thái âm, tay chân ấm áp; Chuyển đến Dương minh, cả người và tay chân đều nóng, người bệnh trấp nhiên xuất hăn nhẹ (xuất mồ hôi liên miên nhưng ít). Đây là do thương hàn chuyển đến, bên dưới, bệnh tà Thái âm, lợi tiểu tiện nên thấp xuất theo tiểu tiện mà nhiệt lưu lại mà xuất ra Dương minh, sau 7,8 ngày hoá táo, phân khô cứng, trước 7,8 ngày, nếu như khi tà nhiệt đến Dương minh, người bệnh có thể xuất hiện một loại xuất mồ hôi nhẹ đặc trưng của thương hàn gọi là “trấp nhiên vi hăn”(濈然微汗).

189 阳明中风,口苦咽干,腹满微喘,发热恶风,脉浮而紧,若下之,则腹满,小便难也。C201
189 Dương minh trúng phong, khẩu khổ yết can, phúc măn vi suyễn, phát nhiệt ố phong, mạch phù nhi khẩn, nhược hạ chi, tắc phúc măn, tiểu tiện nan dă. C201
Đây là điều thảo luận về Dương minh bệnh kinh và phủ đều bị bệnh không thể hạ quá sớm.
Chứng Dương minh trúng phong là Dương minh thụ thương bởi dương tà, khác với chứng thương hàn, thương hàn là do âm tà gây ra. Thụ thương do dương tà rất dễ hoá nhiệt. Thụ thương ở đâu?, là kinh có tà và phủ cũng có, kinh và phủ đều bị bệnh, cũng chính là biểu lư của Dương minh bị bệnh. Bên trong bất hoà, vị gia Dương minh cũng có điểm thực, đầy bụng, khí cơ không thuận lợi gây suyễn nhẹ. Phế và Đại tràng có quan hệ biểu lư, trung tiêu đă thành thực (chứng), ảnh hưởng phế khí, v́ thế xuất hiện chứng suyễn nhẹ. Đây chính là chứng lư thực. “Khẩu khổ yết can” (miệng đắng họng khô), chính là nhiệt rất mạnh, miệng đắng, họng khô, dương minh vị nhiệt, nhiệt bên trong rất mạnh.
“Phát nhiệt ố hàn” (phát sốt sợ lạnh) chứng trạng này cho thấy c̣n biểu chứng của kinh Dương minh. Bệnh tà ở kinh của Dương minh chưa giải, v́ thế c̣n phát nhiệt sợ lạnh, “Mạch phù nhi khẩn”, mạch Phù chủ bệnh ở biểu, Khẩn là chủ thực chứng. Mạch phù khẩn của dương minh bệnh và Thái dương bệnh khác nhau. Mạch phù khẩn của Thái dương bệnh là chỉ về chứng phong hàn, mạch phù khẩn của Dương minh bệnh có ư chỉ là đă có bệnh tà ở biểu mà bên trong cũng thực, v́ mạch khẩn đại biểu cho thực chứng. Như vây kinh và phủ của Dương minh đều bị bệnh, biểu lư đều bệnh, trước tiên phải giải biểu sau tiết (điều tiết) lư, hoặc biểu lư lưỡng giải. “Nhược hạ chi” (Nếu tả hạ) Nếu chỉ thấy đầy bụng, suyễn nhẹ, các vấn đề táo nhiệt như miệng đắng họng khô, dùng phương pháp tả hạ, như vậy là tả hạ quá sớm, hậu quả là bệnh tà ở biểu thừa cơ đi vào trong, chứng đầy bụng trở nên nghiêm trọng, “tiểu tiện nan dă”, nhiệt khí bên ngoài cũng nhập vào trong, tân dịch càng bị tổn thương hơn.
190 阳明病若能食,名中风;不能食,名中寒。C202
190 Dương minh bệnh nhược năng thực, danh trúng phong; Bất năng thực , danh trúng hàn. C202
Điều này thảo luận phân biệt một số t́nh huống cụ thể của vị phủ dương minh bệnh với hai loại tà khí trúng phong và trúng hàn. Bệnh ở kinh Dương minh liên quan đến dạ dày (vị), vấn đề ở đây là có thể ăn và không thể ăn, v́ Dương minh chủ bên trong (lư). Thái dương chủ bên ngoài (biểu), vấn đề ở Thái dương là xuất hăn hay là không xuất hăn. Thái dương trúng phong th́ xuất hăn, Thái dương thương hàn th́ không xuất hăn. “Dương minh bệnh, nhược năng thực, danh trúng phong, bất năng thực, danh trúng hàn” (阳明病,若能食,名中风,不能食,名中寒。)Bệnh ở kinh Dương minh, nếu ăn uống được là chứng trúng phong, không ăn uống được là chứng trúng hàn. Phong là dương tà, dương tà đă trúng Dương minh, dương khí tiêu diệt ngũ cốc, có thể vận hoá ngũ cốc, v́ thế bệnh nhân có thể ăn uống. Hàn tà gây tổn thương vị dương, vị dương đă hư yếu không thể tiêu hoá ngũ cốc, v́ thế bệnh nhân không thể ăn uống. Điều này dựa vào t́nh trạng ăn được và không ăn được của bệnh nhân để phân tích hàn nhiệt ở trung tiêu.
Ở đây phân tích trúng phong hay trúng hàn, thực tế chính là phân tích tính chất hàn nhiệt của bệnh. Dương minh là bệnh ở phủ, đường đến của nó có hai phương diện, một là bệnh tà do truyền kinh, hai là tự thụ bệnh tà. Bệnh tà truyền kinh chính là phong hàn hoá nhiệt nhập lư, v́ thế bệnh này thường gặp nhiều hơn ở bệnh nhiệt tính, biến hoá bệnh lư nghiêng nhiều về nhiệt chứng. Dương minh tự thụ tà không phải do truyền kinh, chính là bản thân Dương minh thụ tà khí, vấn đề hoá nhiệt của nó và bệnh tà do truyền kinh sẽ có điểm khác biệt. Bản thân Dương minh tự thụ bệnh tà, th́ không nhất thiết phải hoá nhiệt, Dương minh có thể thụ thương do nhiệt, cũng có thể bị tổn thương do hàn
nên không bị hoá nhiệt hạn chế.
Tự thụ tà có hai thứ, một là phong, hai là hàn. Phong dễ hoá nhiệt, hàn gây tổn thương dương khí, dễ thành hàn chứng. V́ thế vị phủ thụ bệnh phân thành hàn nhiệt, phân phong hàn là rất quan trọng. Dựa vào đâu để phân? Xét theo bệnh nhân có ăn được hay không. Bệnh nhân ăn được là thuộc nhiệt, thuộc dương; Không ăn được là thuộc hàn, thuộc âm. Ở đây có quan hệ với vị khí thịnh suy của bệnh nhân.

191 阳明病,若中寒者,不能食,小便不利,手足濈然汗出,此欲作固瘕,必大便初鞕后溏。所以然者,以胃中冷,水谷不别故也。C203
191 Dương minh bệnh, nhược trúng hàn giả, bất năng thực, tiểu tiện bất lợi. thủ túc trấp nhiên hăn xuất, thử dục tác cố hà, tất đại tiện sơ ngạnh hậu đường. Sở dĩ nhiên giả, dĩ vị trung lănh, thuỷ cốc bất biệt cố dă. C203
Đây là điều thuyết minh về trúng hàn có liên hệ cụ thể đến một bệnh.
Đó là bệnh ǵ? Trương Trọng Cảnh nói “Vị trung lănh”(lạnh trong dạ dày) lănh là hàn. V́ lạnh trong vị, dương khí bị hư tổn, cho nên nước và ngũ cốc không tách biệt, kết quả là tiểu tiện không thuận lợi, phân lúc đầu cứng phần sau bị nát, đại tiểu tiện không điều hoà. Dương minh bệnh trúng hàn bệnh nhân sẽ không ăn được, v́ tà khí âm hàn làm tổn thương vị dương, vị dương tổn thương, không thể làm chín thuỷ cốc.
V́ sao tay chân liên tục xuất mồ hôi? Táo nhiệt ở Dương minh bức bách tân dịch tiết ra ngoài, nên tay chân xuất mồ hôi, hiện tại người này trúng hàn, “vị trung lănh” (胃中冷) dạ dày bị lạnh, nên thuỷ cốc không hủ biệt (không ngấu chín, tách biệt), v́ sao chân tay xuất hăn liên tục? Điều này rất quan trọng, nếu không phân tích rơ ràng, khi thảo luận đến điều C205 ở phần dưới, Dương minh bệnh, không thể ăn, công kỳ nhiệt tất gây nôn oẹ. Do đó, dạ dày hư yếu và lạnh. Với cơ thể hư nhược “công kỳ nhiệt tất uế” (việc trừ nhiệt tất dẫn đến nôn oẹ), cũng do phân tích không rơ ràng, dễ nhận lầm chứng hư hàn thành chứng táo nhiệt). Tay chân xuất hăn liên miên ở “Vị trung lănh” (胃中冷) lạnh trong dạ dày khác với chứng tay chân xuất hăn liên miên ở Dương minh bệnh, mồ hôi ở Dương minh bệnh th́ nóng, c̣n mồ hôi ở “Vị trung lănh” th́ mát lạnh. Chân tay xuất hăn liên miên, mồ hôi th́ lạnh, là h́nh thượng của vị hàn mà dương khí không vững vàng kiên cố. Chứng xuất hăn này là của dương hư không kiên cố, và là mồ hôi của dương nhiệt bốc hơi.Hai loại mồ hôi có bản chất khác biệt. Một là thực nhiệt, một là hư hàn.
Kết quả là dạ dày vốn đă lạnh, thuỷ và cốc không tách biệt, nước nên về bàng quang để thành nước tiểu th́ không về, lại về với đại tràng nên phát sinh trở ngại, v́ thế đại tiểu tiện phát sinh cải biến, một là tiểu tiện không thuận lợi, hai là đại tiện phân lỏng, phân không thành khuôn. “Sơ ngạnh hậu đường” (初硬后溏), “sơ ngạnh” là đại tiện lúc đầu là phân cứng, phần sau“đường” (溏) là phân lỏng. Lúc đầu phân cứng là hiện tượng, phần sau phân lỏng là bản chất. Vị dương không mạnh, không kiên cố, thuỷ hàn ngưng tụ bên trong, một phương diện gây tiểu tiện bất lợi, một phương diện khác là phân lúc đầu cứng, Ở đây “Sơ ngạnh” không phải do táo nhiệt mà chính là dương hư ở trung tiêu, thuỷ hàn tà ngưng tụ ở trong, tân dịch bất lợi, v́ thế phân lúc đầu bị cứng. “Hậu đường” (phân lỏng ở phần sau) chính là phản ảnh của tràng hư hàn. Chứng hư hàn thường có hiện tượng giả, như là nhiệt, là táo mà trên thực tế là không phải. Chứng đại tiện táo kết của Dương minh bệnh, không phải là vấn đề của phân cứng lúc đầu, mà là 6,7 cục phân cứng, rất cứng, cứng như những con tính trên bàn tính, từng khối từng khối không xuống được. Trường hợp này đi đại tiện với phân thành khối cứng sẽ có điểm khó khăn, đến khi ra được các cục phân cứng th́ phần sau là phân lỏng, phân lỏng không thành khuôn. Là phản ảnh của vị dương hư, thuỷ và cốc không tách biệt, hàn khí ngưng kết, tân dịch thuận lợi.
Căn bệnh này theo y học cổ đại là bệnh “Thử dục tác cố hà” (此欲作痼瘕) “cố”là kiên cường, “hà” là “khí tụ” là tên một loại hội chứng cổ xưa, là vị hư hàn, hàn khí ngưng kết, thành chứng cố hà. Chứng cố hà này có nhiều điểm giống chứng đại tiện táo kết, phân cứng lúc đầu, cũng giống chứng táo nhiệt của kinh dương minh, thủ túc trấp trấp xuất hăn (tay chân xuất mồ hôi liên miên), thực tế chính là vấn đề hàn ngưng. Hàn ngưng tụ, dương hư bất hoá, tân dịch không giữ được, nên tay chân trấp trấp xuất hăn (xuất hăn liên tục). Không thể lấy chứng trạng phân cứng lúc đầu để đại biểu cho mọi thứ, không giống với chứng phân táo kết ở Dương minh, đây là giả tượng, không phải là vấn đề bản chất. Bản chất của vấn đề là đại tiện phân lỏng. V́ thế đây là lạnh trong dạ dày, thuỷ cốc không tách biệt, mà thời cổ đại gọi là chứng cố hà của hàn khí ngưng kết. Tương tự như chứng Dương minh táo nhiệt, mà trên thực tế là không đúng.
Dạ dày hư hàn, thuỷ và cốc không tách biệt, có phần tương tự như chứng táo thực của Dương minh. Có chứng xuất hăn liên miên, đại tiện lúc đầu phân cứng. Hàm ư, trong bụng c̣n bị trướng, đau. V́ có chứng cố hà, hà là khí ngưng tụ. Nhưng đây là hư hàn, không phải táo nhiệt. Như vậy để phân biệt, nếu như nhận lầm là thực chứng của kinh Dương minh, dùng phép tả hạ mà không dùng ôn pháp, hậu quả sẽ như thế nào? Chúng ta cùng xét điều C206.
Trường Xuân Ng Nghị
 
Reply with a quote

<< Trang trước 1 2 3 4 5 6 7 Trang kế >>

<< Trả Lời >>

Nội Quy | Góp Ý | © 2009 - 2024 yhoccotruyen.org